Đặc điểm và vai trò của vốn ODA Nhật trong phát triển kinh tế châu Á
Kể từ năm 1991 và kéo dài trong suốt thập kỷ 90, xét về khối lượng vốn ODA được giải ngân thì Nhật đã vượt Mỹ và trở thành nước cung cấp vốn ODA nhiều nhất cho các nước đang phát triển, đặc biệt ở châu Á. ODA của Nhật đã chiếm từ 1/4 đến 1/5 tổng vốn ODA trên toàn thế giới. Tuy vậy, xét về khối lượng vốn ODA trên tổng thu nhập quốc dân (GNI) thì Nhật không phải là nước “hào phóng” nhất. Tỷ lệ này của Nhật chỉ là 0,23% năm 2001 so với tỷ lệ 0,7% của 5 nước châu Âu là Đan Mạch, Na Uy, Luxembourg, Hà Lan, và Thụy Điển.
Vốn ODA có thể phân loại thành vốn viện trợ không hoàn lại hay vốn vay, phụ thuộc vào việc khoản giải ngân ban đầu có phải hoàn trả hay không. Tỷ trọng vốn vay chiếm khoảng 30% tổng vốn ODA đã giải ngân của Nhật trong mấy năm gần đây. So với tiêu chuẩn quốc tế thì đây là tỷ lệ khá cao.
Vì vốn vay ODA là khoản vay phải trả nên sự phân bổ nguồn vốn này theo khu vực và ngành có những khác biệt với các loại viện trợ khác là những khoản cho không hoàn lại. Ở châu Á, tỷ trọng vốn vay trong ODA của Nhật chiếm đến trên 60%, trong khi đó con số này ở châu Phi chỉ vào khoảng chưa đến 10%. Nói cách khác, vốn vay ODA thường tập trung vào những nước có thu nhập tương đối cao hơn còn viện trợ không hoàn lại tập trung ở những nước nghèo nhất, chậm phát triển nhất. Hơn nữa, vốn vay ODA Nhật tập trung chủ yếu vào một số nước châu Á. Ví dụ vào năm 2001, Trung Quốc là nước tiếp nhận vốn vay ODA của Nhật nhiều nhất, lên tới gần 100 tỷ yên, sau đó là Thái Lan (75 tỷ), Philippines (70 tỷ), Indonesia (55 tỷ), Việt Nam (48 tỷ), và Malaysia (5 tỷ). Nhưng tính trung trong vòng hơn một thập kỷ qua thì bốn nước tiếp nhận lớn nhất là Indonesia, Ấn Độ, Trung Quốc, và Việt Nam, tổng cộng chiếm đến 70% tổng số vốn ODA của Nhật.
Thêm một điều đáng lưu ý là vốn vay chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng vốn ODA của Nhật cho các nước châu Á này. Lấy ví dụ Việt Nam, tỷ lệ này lên tới 82-90% trong nửa đầu thập kỷ này, như minh họa ở bảng sau đây:
Cơ cấu vốn ODA của Nhật cho Việt Nam (%)
1999 | 2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | |
Vốn vay | 90.4 | 82.1 | 82.0 | 87.0 | 87.5 | 88.3 | 89.9 |
Viện trợ | 4.1 | 9.4 | 9.3 | 5.7 | 6.3 | 5.4 | 4.5 |
Hợp tác ký thuật | 5.4 | 8.6 | 8.7 | 7.3 | 6.2 | 6.3 | 5.6 |
Xét về phân bổ theo ngành, một tỷ trọng lớn vốn vay ODA được dành cho xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông. Vốn danh cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội (như giáo dục, sức khỏe, và vệ sinh công cộng) tương đối thấp. Hơn nữa, viện trợ không hoàn lại thường cấp cho những ngành có tính sinh lợi thấp (như nông nghiệp).
Đã có một số nghiên cứu cho thấy các yếu tố chi phối sự phân bổ vốn ODA đến một quốc gia nào đó không chỉ là những yếu tố về kinh tế như dân số, mức thu nhập, và thương mại, mà còn có những yếu tố về chính trị và xã hội và đặc tính khu vực. Vì lý do này mà ODA của Nhật còn được nhìn nhận như một “công cụ”, đôi khi là “vũ khí” trong chính sách ngoại giao và đối ngoại của họ. Từ đây có thể dễ hiểu tại sao khối lượng vốn ODA của Nhật phân bổ cho các nước đang phát triển, cho các khu vực, các ngành lại khác nhau đến vậy.
Sử dụng số liệu ODA của Nhật từ trong thập kỷ 90 và đầu thập kỷ này, một số nghiên cứu định lượng đã phân tích vai trò của ODA Nhật trong phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Trong số này đáng chú ý nhất là của tác giả Kawasaki ở Viện kinh tế, thương mại và công nghiệp Nhật (đăng trên tạp chí Applied Regional Science Conference, năm 2004) cho thấy một số kết quả về tác động của vốn vay ODA Nhật lên tăng trưởng GDP và một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chọn lọc khác của các nước tiếp nhận ODA Nhật ở châu Á như bảng sau:
Tác động của vốn vay ODA của Nhật lên nền kinh tế các nước tiếp nhận
Trung Quốc | Indonesia | Malaysia | Philippines | Thái Lan | Việt Nam | |
Tăng GDP | 0.12% | 0.5% | 0.2% | 0.71% | 0.49% | 1.65% |
Lạm phát | -0.06% | -0.22% | -0.13% | -0.6% | -0.29% | -0.69% |
Xuất khẩu | 0.14% | 0.59% | 0.19% | 0.9% | 0.34% | 2.53% |
Cán cân thương mại | 139% | 67% | 13% | 6% | 29% | 28% |
Theo nghiên cứu trên, vốn vay ODA làm tăng tổng vốn đầu tư của các quốc gia tiếp nhận, do đó làm tăng năng lực sản xuất, dẫn đến tăng GDP so với trường hợp không có nguồn vốn bổ sung này. Từ bảng trên cho thấy, tác động của vốn vay ODA Nhật lên tăng trưởng GDP của các quốc gia ở châu Á giao động trong khoảng từ 0,1% ở Trung Quốc đến gần 1,7% ở Việt Nam. Đây là một con số khá lớn, đặc biệt đối với Việt Nam, kể cả nếu so với tốc độ tăng trưởng chung của GDP khá nhanh trong cùng thời kỳ, trên 7%.
Tăng năng lực sản xuất còn giúp giảm lạm phát ở những nước này. Được lợi nhất vẫn là Việt Nam, với tốc độ giảm lạm phát là 0,7%. Giá cả nội địa giảm sẽ cải thiện tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của những nước tiếp nhận này, và do đó làm tăng khối lượng xuất khẩu của họ, đáng kể nhất vẫn là Việt Nam, tới 2,5%. Nhập khẩu cũng tăng vì nhu cầu của nền kinh tế đã tăng hơn khi tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, nhưng nhu cầu này phần nào bị cản trở bởi sự giảm giá ở thị trường nội địa nên cuối cùng cán cân thương mại vẫn được cải thiện mạnh, nhất là Trung Quốc.
Như vậy, có thể kết luận lại rằng vốn ODA của Nhật cho Việt Nam tuy đa phần là vốn vay phải hoàn trả lại với lãi suất và các điều kiện ràng buộc chặt chẽ khác nhưng có tác động khá lớn đến tăng trưởng kinh tế và cải thiện đáng kể các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Nguồn vốn này còn đặc biệt có ý nghĩa đối với Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển ở châu Á nói chung khi nó là nguồn vốn bổ sung quý báu và quan trọng cho phát triển vào những giai đoạn khó khăn, khủng hoảng kinh tế ở những nước này (ví dụ vào thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 1997). Vì vậy, tiếp tục cải thiện tính minh bạch và hiệu quả sử dụng nguồn vốn này để kêu gọi chính phủ Nhật tiếp tục rót vốn ODA cho Việt Nam là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quan hệ hợp tác kinh tế với Nhật, song song với việc tăng cường thu hút FDI từ Nhật và tự do hóa thương mại với họ, nhằm góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững trong các năm tới ở Việt Nam.
T.s: Phan Minh Ngọc
(Xuất bản trên báo giấy số 303, 30.10.2006)