Phố nghề lặng chảy

Tuỳ bút của Vũ Phương Nguyên 24/03/2019 08:26

Thật may mắn cho Hà Nội là cho đến ngày hôm nay vẫn còn lại một số phố phường với các nghề cổ truyền mang dấu ấn đặc trưng theo tên gọi cũ, mặc bao biến đổi thăng trầm…

“Chắc rồi sự dịch chuyển, biến đổi và phát triển của các phố nghề Hà Nội vẫn đang còn diễn tiến không ngừng theo thời gian và xu thế tiêu dùng của xã hội. Song, vẫn ước sao sẽ vẫn còn lưu giữ được những gian  bảo tàng phố cổ phường xưa quý giá cho hậu thế mai sau...”

Sự chuyển dịch dòng chảy dần sang hướng Đông của dòng sông Hồng trong hàng chục thế kỷ - đó là một trong những yếu tố tự nhiên góp phần làm chuyển dịch những phố nghề, phố hàng của đất kinh kỳ, Kẻ Chợ Thăng Long Hà Nội trong nhiều thế kỷ. Xưa phố Hàng Bè chính là nằm bên bờ sông Hồng, tàu thuyền, bè mảng tấp nập suốt đêm ngày. Sau dòng chảy sông Hồng dịch xa, phố Hàng Bè dần thành bờ bãi, tàu thuyền, bè mảng không còn chỗ ghé lại, một đoạn phố Hàng Bè lại trở thành phố Hàng Cau là nơi tập kết buôn bán cau khô. Sau này, theo thời gian, việc buôn bán cau mai một, do phong tục ăn trầu ở Hà Nội và các vùng ven không còn thịnh hành như trước. Ngày xưa, nhà văn Nhất Linh thuộc Tự Lực Văn Đoàn cũng sinh sống tại một ngôi nhà trên phố Hàng Bè. Bà vợ nhà văn có một cửa hàng buôn bán cau khô rất lớn. Sau năm 1954, gia đình nhà văn chuyển vào Sài Gòn sinh sống và bà vợ nhà văn vẫn giữ nghề buôn bán cau khô tại một cửa hiệu bên cạnh chợ An Đông cho đến tận sau ngày thống nhất đất nước năm 1975.

Nhà sử học Lê Văn Lan ngày xưa cũng đã được sinh ra trong một ngôi nhà thuộc phố Hàng Cót, cái thời mà phố vẫn còn đôi ba hàng buôn bán cót. Họ thường trải những tấm cót đan từ nứa tước dài rộng khắp trên hè phố. Bây giờ nhiều bạn trẻ nghe nói đến “cót”, còn chả hiểu “cót” là gì. Xin thưa, đó là những tấm phên lớn đan từ nứa chẻ. Chúng rất dài rộng. Người nhà nông mỗi mùa gặp thường mua cót về quây thành những chiếc thùng lớn cao ngang đầu người để đựng thóc sau khi gặt đập phơi khô. Cót thường được dùng làm phên che, hay trần nhà cho những ngôi nhà tạm của người nghèo. Sau này, cót thường được dùng lót dưới các tấm bê tông đổ trần trong các ngôi nhà kiên cố. Đôi khi nhà xây lâu ngày, một đôi tấm vữa trần rụng xuống, người ta nhìn lên vẫn thấy các vết hằn chéo qua chéo lại in trên cốt bê tông…

Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá, xã hội của Việt Nam thì những phố phường Hà Nội cổ là một thể cộng đồng phức  hợp cả về mặt chính trị (tức là mặt tổ chức hành chính), về mặt kinh tế (tức là các hoạt động nghề nghiệp, sản xuất, buôn bán) và về mặt văn hoá (nếp sống sinh hoạt ứng xử của cư dân).  Đặc trưng lớn nhất của phố cổ Hà Nội chính là những phố nghề.

Sự xuất hiện và định hình các phường phố chuyên nghề của kinh đô Thăng Long đã diễn ra dần dần theo thời gian, phụ thuộc vào yêu cầu phát triển của đời sống, sản xuất, giao lưu, buôn bán và các sinh hoạt văn hoá, tinh thần còn mang đậm chất làng quê Việt Nam.

Ở kinh thành, tầng lớp vua chúa, quan lại và học trò, kẻ sĩ chiếm số lượng không lớn, còn lại  đa số  nhân dân thuộc tầng lớp nông, công, thương. Trong đó, bộ phận thợ thủ công, thương nhân chính là yếu tố chủ thể của cả đô thị Thăng Long, Hà Nội. Nguồn gốc của những người thợ này một phần là dân bản xứ lâu đời của một số làng chuyên ven đô và phần lớn là từ các làng quê chuyên nghệ, nằm trong vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ, bên cạnh các triền sông Hồng, sông Đáy, sông Thái Bình, sông Cầu, rất thuận lợi cho việc giao thông luân chuyển.

Phương thức di cư hành nghề phổ biến là sau khi người làng học được kỹ thuật chuyên môn do vị tổ nghề trong làng để lại, đến những dịp thuận tiện, họ hoặc là được vua chúa vời lên phục vụ cho nhu cầu của hoàng cung. Hoặc là theo nhau kéo lên kinh đô mở cửa hàng, cửa hiệu. Trước là bán buôn các mặt hàng truyền thống đem từ quê hương lên. Sau dần, họ vừa buôn bán vừa tổ chức sản xuất tại chỗ cho thuận tiện. Từ đó hình thành các phường phố chuyên nghề.

Không những đem theo nghề nghiệp cổ truyền, họ còn đem theo luôn những tập quán sinh hoạt văn hoá tinh thần của quê hương ra kinh thành. Dân làng Châu Khê đúc bạc lập đền thờ Kim Ngân ở phố Hàng Bạc, dân làng Chắm đóng giày lập đền thờ tổ nghề ở ngõ Hài Tượng, dân Ngũ Xã lập đền thờ tổ nghề đúc đồng ở bên hồ Trúc Bạch…

Vào thời hậu Lê, một học giả phương Tây là Baron khi nghiên cứu về Bắc Kỳ cũng nhấn mạnh đến tính chất chuyên nghề của các phường thủ công buôn bán và sự liên hệ của nó với các làng quê gốc. Ông viết: “Tất cả các vật phẩm khác nhau bán trong thành phố này được dành riêng cho từng phường, mới thi lại phụ thuộc vào hai hay nhiều làng. Và dân chúng làng xã này được đặc quyền mở các cửa hiệu ở đó”.

Đến cuối thế kỷ XIX, một phóng viên phương Tây đã miêu tả diện mạo của phố phường Hà Nội như sau: “Mỗi căn nhà là một cửa hiệu. Những gian bày hàng đưa chiều sâu của cửa hiệu xuống tận lề đường. Mỗi loại hàng hoá đều có phố riêng. Ở phố Bát Sứ, tất cả đều đỏ. Rồi đến Hàng Đồng lấp lánh ánh  kim vàng chói. Phố Hàng Thêu, phố Hàng Tranh. Tiếp theo là phố Hàng Trống, màu sắc tươi vui, sặc sỡ...”.

Nhà Nguyễn hình thành đã đặt kinh đô tại Huế và chuyển đất kinh kỳ Thăng Long thành tỉnh Hà Nội. Việc xây dựng lại Thành cổ Hà Nội với quy mô nhỏ hơn Hoàng thành Thăng Long thời nhà Lê đã làm dư ra nhiều khoảng đất trống rộng lớn ở phía Đông, phía Nam và phía Tây. Ở phía Đông, khu vực phố Cửa Đông, Đường Thành và Phùng Hưng hiện thời và các phố lân cận được gọi là đất Tân Khai. Và rất nhanh chóng, việc buôn bán, hành nghề thủ công trong khu phố cổ, khu các phố Hàng, đã lan tỏa nhanh chóng sang khu đất Tân khai này, hình thành nên các phố Hàng Gà, Hàng Cót, Lò Rèn, Hàng Vải, Hàng Mã…

Người Pháp khi quy hoạch, xây dựng, phát triển đô thị Hà Nội đã thực hiện một cuộc cải biến khá lớn. Tuy nhiên, hầu như khu phố cổ vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn. Nhưng việc lấp một đoạn lớn dòng sông Tô Lịch từ khu vực cửa sông, đoạn phố chợ Gạo, chạy qua các phố Hàng Cá, Hàng Rươi, sang Hàng Lược, và đoạn hào thành cũ Hà Nội phía Bắc (nay là phố Phan Đình Phùng) đã là một sự chấn động lớn. Trước đó, do có dòng Tô Lịch nối từ sông Hồng vào, khu vực phố Hàng Cá, Hàng Rươi chính là một ngôi chợ buôn bán  thủy sản vô cùng sầm uất của dân Kẻ Chợ. Và xung quanh đó là các phố nghề , phố Hàng chuyên dụng:  Hàng Đường, Hàng Đồng, Thuốc Bắc, Hàng Cân…

Mãi đến tận những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, làn sóng di cư của các thôn quê ra Hà Nội Vẫn còn tiếp diễn. Song cho đến lúc này, đất cát trong các thành phố nội thị đã quá chật hẹp, dân làm nghề không có điều kiện tụ hội một chỗ mà hành nghề như cha ông nên phải phân tán ra nhiều địa điểm khác. Trường hợp thợ rèn làng Canh Hòe Thị là một ví dụ. Ngoài địa điểm định cư ban đầu ở phố Lò Rèn, nơi còn lưu đền thờ tổ nghề, họ đã tản ra sinh sống, hành nghề ở Sinh Từ (Nguyễn Khuyến) và một số cửa ô khác như Kim Mã, Cầu Dền, với các cửa hàng đồ sắt vẫn tồn tại, phát triển cho tới giờ đây

Song cũng cho tới giờ đây, do sự biến động của thời cuộc cũng như biến động khác trong đời sống hàng ngày, phố phường Hà Nội cũng đã có nhiều thay đổi. Một số tên phường phố xưa đã không còn, thế hệ trẻ Hà Nội giờ không hề biết đến các phố như Hàng Lọng, Hàng Trứng, Hàng Đũa, Hàng Đàn, Hàng Thịt, Hàng Cau, Hàng Chè... như đã một thời tồn tại. Phố Hàng Dầu trở thành phố bán giày dép, phố Thợ Nhuộm trở thành phố bán quần áo… Trên bán đảo Ngũ Xã cũng không còn bất cứ một lò đúc đồng nào. Tất cả đều đã dịch chuyển sang các vùng ngoại ô để tránh làm ô nhiễm môi trường dân cư nội thị. 

Lớp trẻ trên phố theo các nghề làm ăn khác cũng nhiều. Phát đạt nhất là nghề bán hàng ăn uống. Lý do cũng bởi vì làng Ngũ Xã xưa khá giả, cỗ bàn nổi tiếng đặc sắc. Con cháu các gia đình kế thừa truyền thống mà làm kế sinh nhai trong thời buổi mới. Đương nhiên, không phải vì vậy mà các phường nghề cổ truyền ở Hà Nội đã mất hết. Chỉ có một số nghề mà sản phẩm của nó không còn thích hợp với nhu cầu cuộc sống hàng ngày của người dân đô thị mới không tồn tại nữa. Ví như phố Hàng Lọng, phố Hàng Nón, phố Hàng Hài… Một số nghề khác thì chỉ chuyển dịch về mặt địa lý theo những yêu cầu của cuộc sống cư dân và những điều kiện kinh tế xã hội mới. Phố Hàng Dầu khi xưa bán các loại dầu ăn, dầu đốt, nay lại chuyển sang bán giày dép, thay cho vai trò của phố Hàng Giầy rồi phố Hàng Điếu một thời. Giờ thì trên phố Hàng Điếu chả còn bán điếu cày điếu bát hút thuốc của các cụ xưa. Sau một thời bán giày dép, phố Hàng Điếu lại trở thành phố bán các loại quà đặc sản của Hà Nội như chè mứt, bánh kẹo… 

Trong thời kỳ hiện tại, Hà Nội đã xuất hiện thêm nhiều phố nghề mới hầu đáp ứng nhu cầu phát triển của cư dân Hà Nội. Phố hàng may mặc Khâm Thiên, phố vật liệu xây dựng Cát Linh, phố đồ gỗ Đê La Thành, phố ăn đêm Tống Duy Tân - Cấm Chỉ, phố đồ chơi Lương Văn Can... Ngay như phố Lương Văn Can trước khi chuyển thành phố đồ chơi, đã được gọi là phố áo dài với hàng chục cửa hiệu áo dài được mở bởi đa phần là người làng nghề áo dài Trạch Xá, Hòa Lâm, Ứng Hòa, Hà Tây cũ. Sau do nghề may đo áo dài không phất bằng nghề buôn bán đồ chơi, nên nhiều cửa hàng lại chuyển đổi dần... Chắc rồi sự dịch chuyển, biến đổi và phát triển của các phố nghề Hà Nội vẫn đang còn diễn tiến không ngừng theo thời gian và xu thế tiêu dùng của xã hội. 

Tuy nhiên, thật may mắn cho Hà Nội là cho đến ngày hôm nay vẫn còn lại một số phố phường với các nghề cổ truyền mang dấu ấn đặc trưng theo tên gọi cũ. Đó là Hàng Bạc, Hàng Đồng, Hàng Thiếc, Lò Rèn, Hàng Mã, Hàng Mành, Hàng Chiếu, Hàng Đường, cho dù là chính những đường phố cổ hiếm hoi này cũng phải trải qua bao nhiêu biến đổi thăng trầm.

Trong tương lai, thành phố Hà Nội sẽ còn mở rộng, phát triển và chắc chắn vẫn còn nhiều biến đổi. Song, vẫn luôn ước sao chúng ta sẽ vẫn còn lưu giữ được những gian bảo tàng phố cổ phường xưa quý giá cho hậu thế mai sau...

    Nổi bật
        Mới nhất
        Phố nghề lặng chảy
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO