Nghiêm ngặt khi sử dụng chính sách bội chi chủ động
Một số chuyên gia cho rằng, do nguồn lực tài chính của nước ta có hạn, nên trước mắt sẽ phải thực hiện chính sách chủ động bội chi ngân sách để đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Nhưng chính sách này cũng phải đi cùng với nhiều điều kiện nghiêm ngặt, nếu không sẽ có tác dụng ngược lại.
|
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng thu ngân sách nhà nước trong năm 2010 đạt khoảng 500.000 tỷ đồng, vượt 12,7% so với dự toán và tăng 17,6% so với 2009, góp phần giảm bội chi xuống dưới 6%, thấp hơn kế hoạch đề ra (6,2%). Việc số bội chi thấp hơn dự toán là một điểm mới trong thực hiện dự toán chi ngân sách nhà nước, vì xu thế chi vượt dự toán trong nhiều năm qua đã làm mất ý nghĩa của việc lập dự toán. Nhưng cũng chưa thể lấy đó làm điểm tựa cho sự an tâm với cách sử dụng ngân sách nhà nước hiện nay. Bởi lượng vốn chi cho đầu tư phát triển - là khoản chi lớn nhất trong dự toán chi ngân sách nhà nước, vẫn chậm được giải ngân. Việc giải ngân vốn xây dựng cơ bản ở một số địa phương còn chậm. Tình trạng chuyển nguồn là phổ biến và có xu hướng tăng, nhất là nguồn vốn trái phiếu Chính phủ. Theo các chuyên gia: nguyên nhân của tình trạng này là do chưa có đánh giá về kết quả thực hiện phân bổ vốn đầu tư. Do vậy, dù có tiêu chí để phân bổ nguồn vốn đầu tư nhưng không thể xác định được các dự án có đáp ứng yêu cầu hay không? Cơ cấu phân bổ trong ngành nghề, lĩnh vực đã hợp lý chưa? Theo ĐBQH Trần Du Lịch, hiện có tình trạng địa phương nào, ngành nào chạy thủ tục sớm thì được giải ngân sớm. Cách làm này đã phá vỡ tính ưu tiên và tính đồng bộ của đầu tư; gây ra tình trạng vốn nằm khắp nơi, nhưng vẫn có dự án nằm phơi sương gió.
Về mặt lý thuyết, muốn phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thì phải tăng đầu tư. Có nghĩa là lĩnh vực nào, địa bàn nào cũng cần phải đầu tư, chứ không chỉ ở địa bàn khó khăn hay lĩnh vực trọng điểm. Nhưng đầu tư ở khu vực còn khó khăn là vì mục tiêu bảo đảm công bằng xã hội, giảm chênh lệch giữa vùng miền, giầu nghèo. Còn đầu tư ở khu vực có lợi thế để tạo điểm đột phá, nuôi dưỡng nguồn thu cho đất nước, để tái đầu tư cho các vùng còn khó khăn. Như vậy, khi mục tiêu đầu tư khác nhau thì cần thay đổi thói quen nhìn đầu tư đơn giản chỉ là phân bổ cho ngành nghề, khu vực. Một số ý kiến cho rằng cần phải phân bổ cụ thể đến từng dự án; xác định thời điểm đầu tư, cách thực hiện... để cân đối nguồn vốn hợp lý. Có như vậy mới dứt điểm, nhanh chóng đưa vào sử dụng, góp phần bảo đảm tính đồng bộ và khả năng lan tỏa của dự án, chương trình. Cụ thể là: đầu tư cho nông thôn, miền núi, biên giới thì nên thực hiện theo Chương trình mục tiêu quốc gia, có sự hỗ trợ của Trung ương trong mọi khâu, chứ không thể khoán trắng cho địa phương như hiện nay. Hay như đầu tư cho dạy nghề thì phải tính đến sự đồng bộ của việc chuẩn bị đội ngũ giáo viên, đối tượng tuyển sinh, đầu ra sau đào tạo, chứ không chỉ xây dựng trường lớp...
Có thể trước mắt, nước ta sẽ còn phải thực hiện chính sách chủ động bội chi ngân sách để đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội. Một số chuyên gia cũng đề nghị, bội chi tích cực phải đi cùng với những điều kiện nghiêm ngặt như: phải có Chiến lược nợ Chính phủ và Chiến lược nợ quốc gia; các điều kiện bảo đảm hiệu quả trong đầu tư; đủ khả năng trả nợ hàng năm. Tuy nhiên, sử dụng chính sách bội chi chủ động sẽ là con dao hai lưỡi, nếu cơ chế quản trị công yếu kém sẽ có tác dụng ngược lại. Do vậy, sử dụng chính sách này, trước mắt cần đổi mới căn bản phương thức quản trị tài chính công, phân bổ vốn dầu tư; xây dựng cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả... Theo cái nhìn của các chuyên gia, về lâu dài cần sửa đổi Luật Ngân sách Nhà nước theo hướng tách bạch hai loại ngân sách quốc gia và ngân sách địa phương. Trong đó, Nhà nước quản lý thống nhất, còn việc thiết lập và thực thi ngân sách sẽ giao quyền chủ động cho địa phương với khoản ngân sách của địa phương; ngân sách quốc gia sẽ do QH quyết định. Và tiến tới việc xây dựng Luật Ngân sách hằng năm theo quy trình xây dựng Luật của QH, để phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này sẽ giúp bảo đảm sự giám sát của QH đối với ngân sách quốc gia và HĐND với ngân sách địa phương.