Chính trị

Máu chảy về tim – trăm sông về biển (*)

Ngô Thị Huệ - Đại biểu Quốc hội Khóa I, II, III, IV 23/05/2025 12:03

Theo dõi báo chí, truyền hình suốt những kỳ họp Quốc hội, tôi rất vui mừng và tin tưởng Quốc hội của ta ngày càng hoàn thiện, cố gắng vươn lên để làm tốt cả hai chức năng: lập pháp và giám sát. Một điều rất đáng mừng là trên những hàng ghế Quốc hội càng có thêm nhiều gương mặt phụ nữ. Các chị là những đại biểu xứng đáng cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương...

Vào kỳ họp Quốc hội, những đại biểu trên mọi miền đất nước, như máu chảy về tim - trăm sông về biển, như đàn con của mẹ Âu Cơ, người lên rừng, người xuống biển, trở về mang theo những nguyện vọng của nhân dân, cùng quy tụ dưới tòa nhà Quốc hội. Tôi rất vui mừng trước sự đóng góp to lớn và hiệu quả của Quốc hội trong việc xây dựng Nhà nước, nâng cao dần đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân. Đã từng tham dự và chứng kiến những ngày hội non sông, lòng tôi không khỏi bồi hồi nhớ về những ngày tham gia kỳ họp Quốc hội đầu tiên.

lethihue 1
Bà Ngô Thị Huệ (hàng sau, thứ 2 từ trái sang) là một trong 10 nữ ĐBQH khóa đầu tiên, năm 1946. Ảnh tư liệu Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ

Năm 22 tuổi, tôi là Phó Bí thư Tỉnh ủy, trong Ban Chỉ đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vĩnh Long. Tham gia cuộc khởi nghĩa năm ấy, chúng tôi tràn đầy hy vọng, những tưởng cách mạng sẽ thành công, chính quyền thuộc về tay Nhân dân. Nhưng, cuộc khởi nghĩa nổ ra không đúng thời cơ đã bị thất bại, bị dìm trong biển máu, kẻ thù khủng bố trắng ở nhiều địa phương.

Tôi bị bọn đế quốc bắt vào tù 8 tháng, nhưng do không tìm được chứng cứ cụ thể, chúng đành buộc phải trả tự do. Tôi tiếp tục hoạt động với niềm tin mãnh liệt vào ngày tổng khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ dù thất bại nhưng đã cùng với Bắc Sơn, Đô Lương góp tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc.

Nhận được lệnh triệu tập của Xứ ủy, tôi lên Sài Gòn nhận nhiệm vụ chuẩn bị cuộc khởi nghĩa lần thứ hai. Không ngờ tổ chức bị lộ, nhiều đồng chí bị bắt. Lần này tôi cũng bị bắt và bị kết án tù chung thân khổ sai. Khi dấn thân vào con đường cách mạng cũng có nghĩa là chấp nhận tù đày, hy sinh. Số chị em tù chính trị chúng tôi xác định được điều đó nên đã can đảm vượt qua những đòn tra tấn tàn bạo, những âm mưu thâm độc của kẻ thù.

Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, tù chính trị phá khám Chí Hòa vượt ngục. Khi khám được phá, tôi bị kẹt lại cùng với một số chị em. Không nản lòng, tôi cùng các chị Phan Thị Tốt, Nguyễn Thị Kim bàn cách leo tường vượt ngục lần nữa, nhưng cũng không thành. Kẻ thù cách ly mỗi người vào một cát-sô, cho ăn cơm lạt. Ba tháng sau, chị em chúng tôi được ra khỏi tù nhờ sự khôn khéo vận động của một số công chức có tinh thần yêu nước, đứng về phía cách mạng. Trong suốt thời gian bị cầm tù, tôi theo dõi biết được tình hình cách mạng đang có nhiều chuyển biến.

Đảng nêu khẩu hiệu: "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", cướp thời cơ lãnh đạo Nhân dân vùng lên giành chính quyền...

Theo tinh thần đó, toàn Nam Bộ đã giành được chính quyền vào tháng Tám năm 1945.

Như cánh chim được sổ lồng, tôi tràn ngập hạnh phúc khi được trở về quê nhà hoạt động. Nhân dân nức lòng trước không khí độc lập, tự do. Như có một làn gió mát lành thổi đến, làng quê tôi biến đổi hẳn. Nạn trộm cướp, mê tín được xóa bỏ, người dân yêu thương, tin cậy và đùm bọc lẫn nhau...

Cuộc bầu cử dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù

Nhưng chưa đầy một tháng sau, giặc Pháp trở lại xâm chiếm đất nước ta một lần nữa. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta vẫn được tiến hành theo tinh thần phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời do Bác Hồ làm Chủ tịch. Bác Hồ đã nêu rõ: Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái từ 18 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc v.v..

Bao năm dài sống trong kiếp nô lệ, có được quyền bầu cử, ứng cử ai mà không vui mừng, phấn khởi. Quá trình chuẩn bị và tiến hành Tổng tuyển cử đã diễn ra trong điều kiện các thế lực đế quốc và tay sai ráo riết chống, phá chính quyền cách mạng. Do trình độ giác ngộ chính trị còn hạn chế, đồng bào nhiều nơi chưa hiểu hết tầm quan trọng của Tổng tuyển cử. Chính quyền cách mạng từng địa phương đã tuyên truyền sâu rộng về Tổng tuyển cử, xem đó là một cuộc vận động giáo dục, tổ chức quần chúng, thực hiện đại đoàn kết thống nhất dân tộc.

Tôi được Mặt trận Việt Minh tỉnh Bạc Liêu giới thiệu ra ứng cử. Sự tín nhiệm ấy khiến tôi thấy trách nhiệm nặng nề và lo mình không đủ sức gánh vác... Tôi xuống tận vùng đốt than ở Năm Căn để ra mắt cử tri. Hàng ngàn công nhân đen nhẻm bụi than trong bộ quần áo bằng bố tời đã lắng nghe tôi nói chuyện với đầy niềm tin tưởng, kỳ vọng, về cuộc bầu cử sắp tới để có được một Chính phủ của dân, do dân, vì dân. Lúc đó tôi mới ra tù, người còn ốm yếu, do đó, đồng bào có suy nghĩ rất cụ thể, giản dị: Một người phụ nữ còn trẻ, bị bắt vào tù sau Nam Kỳ khởi nghĩa, bị kết án tù chung thân khổ sai, đã qua thời gian thử thách trong nhà tù đế quốc là tin được... Đồng bào đã dành cho tôi những tình cảm đặc biệt. Tôi nhớ mãi hình ảnh của những bà mẹ buôn gánh bán bưng ngoài chợ đã viết tên tôi lên những tấm lá chuối hay giấy gói hàng chuyển cho người khác. Những bà mẹ cổ động mọi người bỏ phiếu cho tôi bằng những dòng chữ nguệch ngoạc. Làm sao tôi có thể quên.

Giặc đánh chiếm hầu hết các tỉnh, thành. Ở Nam Bộ, cuộc bầu cử đã diễn ra dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh khi đang làm nhiệm vụ. Ở quê tôi, bà con vẫn bơi xuồng đi bỏ phiếu dưới làn đạn của địch, bất chấp mọi thế lực đen tối. Cuộc Tổng tuyển cử được toàn dân tham gia rộng rãi, có nhiều nơi hơn 90% tổng số cử tri đi bầu. Cả nước đã bầu được 333 đại biểu.

Tôi rất hạnh phúc khi cùng với chị Nguyễn Thị Thập, Trịnh Thị Miếng là 3 đại biểu Nam Bộ đắc cử trong số 10 nữ ĐBQH đầu tiên của cả nước. Tôi nhận được giấy triệu tập của Quốc hội cũng vào lúc giặc Pháp tái chiếm Nam Bộ. Tôi chuẩn bị ra đi trong niềm hạnh phúc của một đại biểu thay mặt cho đồng bào tỉnh nhà ra Bắc được gặp Bác Hồ, được có mặt trong ngày khai hội non sông, vừa lo lắng không biết mình có kham nổi trọng trách quá lớn mà đồng bào đã ký thác, vừa không yên lòng khi đồng bào Nam Bộ đang bước vào cuộc chiến đấu ác liệt. Tôi ra đi, nhìn lại quê nhà bị giặc Pháp tái chiếm, dày xéo mà lòng đau như cắt...

Chuyến đi họp Quốc hội đầu tiên

Chuyến đi họp Quốc hội đầu tiên ra Trung ương đã để lại dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi. Năm ấy tôi 27 tuổi, không hình dung được những gian khổ, hiểm nguy trong lộ trình dài dằng dặc, đầy trắc trở mà mình sẽ dấn thân. Không thể công khai đi đường bộ, chúng tôi tổ chức đi đường biển. Khi tôi đến Ông Trang (mũi Cà Mau) thì các đại biểu khác đã đi rồi. Anh Đặng Quang Minh - đại biểu tỉnh Cần Thơ cũng đến Ông Trang trễ chuyến tàu như tôi, chúng tôi được tổ chức đưa đi trên một chiếc ghe đánh cá ngụy trang. Vượt biển qua hải phận Thái Lan, chúng tôi được Việt kiều ra đón và được đưa đến Bản Mại ở nhà của o Huỳnh Anh. Thật may mắn, khi đến tỉnh La-Khôn, chúng tôi được gặp đông đủ các đại biểu đã đi chuyến trước đang bị kẹt lại.

Theo dự kiến, Đoàn ĐBQH Nam Bộ sẽ từ Thái Lan đi qua Lào để về Hà Nội, nhưng chúng tôi không thực hiện được ý định đó vì Pháp đã đánh sang Lào. Một số dân Lào (trong đó có cả người Việt định cư trên đất Lào) chạy sang Thái Lan. Tình hình mất ổn định lúc đó khiến chúng tôi bị kẹt ở Thái Lan một thời gian. Sau đó, chúng tôi đi đường biển qua đảo Hải Nam (Trung Quốc) để về Hà Nội. Dừng chân trên hòn đảo này chúng tôi có dịp chứng kiến cuộc sống khốn cùng của người dân Trung Quốc dưới chế độ Tưởng Giới Thạch. Tàu khách vừa ghé lại, những người dân trong bộ quần áo cũ rách chạy xuống cõng thuê hành khách lên bờ, có người còng lưng quét gom từng lon lúa. Tôi chợt chạnh lòng nhớ đến cảnh đói khổ của đồng bào quê nhà lúc tôi ra mắt cử tri, nơi những hầm nung than ở Cà Mau, bao công nhân trần lưng dưới cái nắng cháy da thịt nhìn tôi với ánh mắt đầy kỳ vọng... Và những gian khổ, truân chuyên của tôi trên hành trình về Thủ đô mang theo những ý nguyện cháy bỏng của nhân dân được chiến đấu cho nền độc lập, tự do nào có sá gì.

Sau này gặp lại, tôi biết thêm chuyến đi họp Quốc hội đầu tiên của chị Nguyễn Thị Thập cũng trải qua trăm ngàn hiểm nguy: xuyên rừng gặp biệt kích, mối càn; đi biển gặp bão cuốn... Dù gian khổ đến đâu, như dòng sông dù phải đổi dòng, phải qua bao thác ghềnh, chảy qua bao lau lách bụi bờ, nhưng chúng tôi cũng quyết tìm đường đến với Trung ương, với Chính phủ cụ Hồ, như máu chảy về tim, như trăm sông về biển. Chúng tôi hiểu được tầm quan trọng của chuyến đi này. Chúng tôi là ĐBQH phía Nam dự phiên họp đầu tiên thành lập Chính phủ của một nước Việt Nam độc lập. Từ Hải Nam, chúng tôi về Đông Hưng.

Đứng ở Đông Hưng, chúng tôi đã ứa nước mắt khi nhìn thấy Móng Cái. Bên kia, chỉ cách bốn, năm mươi thước, qua một cây cầu là đất nước của mình rồi. Lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới làm lòng tôi rộn rã vui sướng và xốn xang.

Đến 5 giờ chiều, tôi xuống tàu đi Hải Phòng. Lần đầu tiên nhìn thấy vịnh Hạ Long, tôi đã lặng người trước kỳ quan mà thiên nhiên đã ban tặng cho Tổ quốc. Cũng đúng ngày tôi về đến Hải Phòng, Bác Hồ từ Pháp về nước sau khi ký Hiệp định sơ bộ. Đồng bào ra đón Bác rất đông, trèo cả lên những cành cây, leo lên những mái nhà. Bác vẫy tay chào tất cả mọi người. Lúc ấy Bác rất gầy, bên cạnh Bác là anh Tô (đồng chí Phạm Văn Đồng).

Tôi đứng lặng vì niềm hạnh phúc khi lần đầu được nhìn thấy Bác Hồ: Bác ơi, đồng bào miền Nam đang ngày đêm chiến đấu gian khổ, không màng hy sinh chống quân xâm lược, còn con thì vinh dự được gặp Bác. Con xin mang ý nguyện của đồng bào miền Nam ra báo cáo với Bác và Trung ương. Tôi rất muốn được đến bên Bác, được nói lên những lời gan ruột. Nhưng vì quá xúc động, tôi chỉ đứng lặng, nước mắt trào ra vì niềm hạnh phúc pha lẫn tự hào...

Tôi còn nhớ phiên họp Quốc hội đầu tiên, các đại biểu miền Nam đã kể lại cảnh đồng bào đi bỏ phiếu dưới làn đạn của kẻ thù. Nhiều cán bộ của ta vừa chống giặc vừa ôm thùng phiếu quyết bảo vệ đến cùng cuộc bầu cử. Bác đã không cầm được nước mắt khi nghĩ đến cảnh ấy. Mắt tôi cũng nhòa đi, lòng quá đỗi nhớ thương, ngậm ngùi nghĩ đến đồng bào miền Nam khi tôi đang được sống giữa lòng Thủ đô Hà Nội.

Sau khi kết thúc kỳ họp Quốc hội, tôi được Đảng cho học lớp chính trị do đồng chí Xuân Thủy phụ trách. Lần đầu tiên được bồi dưỡng kiến thức chính trị, tôi như “nuốt” lấy từng lời truyền đạt của các đồng chí giảng viên. Lý thuyết đã soi rọi thực tiễn, giúp tôi nhận thức được rất nhiều vấn đề quan trọng. Nhưng khóa học mới được một ngày thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Bác nói với chúng tôi: Các đồng chí miền Nam phải trở về Nam chiến đấu. Dù rất tiếc khi phải bỏ dở khóa học, nhưng chúng tôi nghiêm túc chấp hành lời Bác và chuẩn bị lên đường...

Tôi về miền Nam cùng với đoàn của anh Ba Lê Duẩn do đồng chí Quản Trọng Linh làm giao liên dẫn đường. Từ Hà Nội, chúng tôi đi tàu hỏa đến Quảng Ngãi - Quảng Nam rồi đi bộ. Ngang qua dốc Mỏ, chúng tôi nhìn thấy máu của đồng bào, chiến sĩ còn thấm trên đá sau một trận chiến đấu ác liệt. Chúng tôi xuyên rừng mấy ngày mới đến Nha Trang. Đến đây, anh Lê Duẩn và anh Quản Trọng Linh đi bí mật bằng đường bộ, tôi cải trang thành bạn hàng đi hợp pháp bằng tàu hỏa. Vậy là tôi đã trở về Nam, được gặp lại đồng bào Nam Bộ. Niềm vui đó khiến bao gian khổ trên lộ trình vơi đi. Tôi về đến Sài Gòn đầu năm 1947, có giao liên ra đón.

Đến nhà chị Năm Bắc, cơ sở bí mật, tôi gặp anh Mười Cúc (đồng chí Nguyễn Văn Linh), lúc đó là Bí thư Thành ủy. Sau khi trao đổi nhanh với anh vài việc, tôi đi ngay về khu căn cứ Đồng Tháp Mười. Ban Chấp hành phụ nữ Nam Bộ cử tôi đi kiểm tra công tác phụ vận ở các tỉnh miền Tây kết hợp báo cáo kỳ họp Quốc hội đầu tiên tại Hà Nội. Hoàn thành nhiệm vụ trở về, tôi được Đảng phân công lên Sài Gòn làm công tác phụ vận, được bổ sung vào Thành ủy tháng 4/1947.

4 nhiệm kỳ tham gia Quốc hội

Suốt những năm tháng hoạt động nội thành trong thế hợp pháp, dù không thể lấy danh nghĩa ĐBQH bênh vực quyền lợi thợ thuyền, người lao động, mua gánh bán bưng, những người bị áp bức bóc lột, đấu tranh cho nguyện vọng cơm no áo ấm của quần chúng, nhưng tôi vẫn luôn tâm niệm và lấy đó làm phương châm hành động của mình.

Bà Ngô Thị Huệ (ngồi giữa) trong một cuộc làm việc tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ năm 2008. Ảnh: TL

Vì hoàn cảnh công tác, tôi không thể có mặt ở những kỳ họp kế tiếp của Quốc hội.

Đến năm 1959, nhiều cơ sở bị bể, tôi bị lộ, không thể tiếp tục hoạt động ở nội thành, tổ chức quyết định đưa tôi ra miền Bắc bằng đường công khai. Anh Mười Cúc (chồng tôi) lên tận vùng biên giới Việt Nam - Campuchia để tiễn tôi và các cháu. Chúng tôi đi qua Phnom Penh, rồi từ Phnom Penh đi máy bay qua Quảng Châu (Trung Quốc). Vừa đặt chân lên đất Trung Quốc, nghe vang những bài ca cách mạng, lòng chúng tôi lâng lâng vui sướng. Cháu Hòa, con gái đầu lòng của chúng tôi thích quá đã nhảy múa theo. Từ Trung Quốc, chúng tôi đi tàu hỏa về Hà Nội... Nhiều đồng chí trong Quốc hội và Ban thống nhất ra đón chúng tôi, mừng vui không kể xiết khi chúng tôi đến được Hà Nội bình yên.

Biết tôi ở miền Nam ra, đồng chí nào cũng muốn đến thăm, được nghe kể chuyện về miền Nam... Sáng hôm sau, tôi được đi gặp Bác Hồ ở Phủ Chủ tịch. Bác ân cần hỏi thăm và nghe tôi báo cáo cuộc chiến đấu ác liệt của đồng bào miền Nam, địch đã khủng bố nhiều nơi; những ngày đen tối Đảng rút vào bí mật và lòng dân khao khát được vùng lên... Những câu chuyện riêng, chung xen lẫn được thổ lộ với Bác, dù cố trấn tĩnh nhưng nước mắt tôi cứ tuôn tràn. Bác dịu dàng nói: Gian khổ như vậy sao đồng chí không báo cáo. Tôi thưa với Bác: Dạ, đồng bào miền Nam đang bị khủng bố dưới chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm.

Chúng đang lê máy chém đi khắp nơi. Vợ phải xa chồng, con phải xa cha mẹ, những cán bộ, đảng viên bị giết, bỏ tù không kể xiết. Sự khó nhọc của cháu nào có thấm gì trước nỗi đau, gian khổ của đồng bào miền Nam. Đồng bào kính gửi lời thăm Bác, mong đến ngày thống nhất được đón Bác vào thăm miền Nam... Nghe tôi nói vậy, Bác lấy khăn lau nước mắt...

Do hoàn cảnh chiến tranh, đất nước bị chia cắt, các đại biểu miền Nam được lưu nhiệm. Hai khóa liền tôi là ĐBQH ứng cử ở Ninh Bình (bởi Ninh Bình kết nghĩa với Bạc Liêu). Mỗi lần nghe tin miền Nam chiến thắng, lòng tôi vui mừng rộn rã. Nhưng khi nghe tin giặc tàn sát nhân dân, gây tổn thất cho cách mạng thì lòng tôi lại đau nhói, không khỏi lo lắng cho đồng bào, người thân, không biết ai còn, ai mất... Cũng như bao bà mẹ khác trên miền Bắc thời chiến tranh, tôi đã trải qua những ngày vừa nuôi con, vừa làm tròn nhiệm vụ của mình đối với Đảng, với Nhân dân và đất nước.

Suốt 4 nhiệm kỳ tham gia Quốc hội, tôi rút ra bài học sâu sắc cho chính bản thân mình. Đó là vai trò trách nhiệm của một ĐBQH trước nhân dân trong mọi nơi, mọi lúc, mọi tình huống. Trọng trách của một ĐBQH không phải chỉ thể hiện trong các kỳ họp, mà xuyên suốt quá trình phục vụ đồng bào. Dù đã nghỉ hưu nhưng tôi không cho phép mình tự do nghỉ ngơi khi cuộc sống hiện tại còn không ít những người nghèo khổ, bất hạnh. Tôi luôn tâm niệm: Còn được sống ngày nào, tôi còn cố gắng làm việc phục vụ Nhân dân ngày đó.

Dù có sự cách biệt về thế hệ, tuổi tác nhưng có lẽ tôi cùng có chung với các ĐBQH hôm nay về niềm trăn trở: Đừng quên khát vọng no ấm, công bằng, điều thiện mà những cử tri đã gửi gắm vào lá phiếu.

Và dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hoạt động trên những lĩnh vực, tôn giáo, sắc tộc nào, những ĐBQH sống giữa lòng dân, gần gũi, vui buồn cùng dân như máu chảy về tim, trăm sông về biển; là cầu nối giữa dân và Chính phủ, đưa đất nước đến phồn vinh, giàu mạnh.

ĐBQH Khóa I, II, III, IV Ngô Thị Huệ


(*) Trích đăng theo cuốn “Hồi ký Đại biểu Quốc hội khóa I” của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2000

* Các tít xen do Báo Đại biểu Nhân dân đặt

    Nổi bật
        Mới nhất
        Máu chảy về tim – trăm sông về biển (*)
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO