Liên kết và công nghệ - lối ra cho nông sản chủ lực Bắc Trung Bộ
Dù sở hữu tiềm năng lớn với các cây trồng chủ lực như dứa, chè, cây có múi, vùng Bắc Trung Bộ vẫn đối mặt nhiều thách thức trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ” đã gợi mở nhiều giải pháp từ liên kết vùng, thu hút đầu tư đến ứng dụng công nghệ, nhằm nâng tầm nông sản địa phương.
Tiềm năng lớn, thách thức không nhỏ
Ngày 6/8, Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Hội Làm vườn Việt Nam, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An tổ chức Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ”.

Với hàng triệu hecta đất nông lâm nghiệp, Bắc Trung Bộ được xác định là vùng trọng điểm trong chiến lược phát triển nông nghiệp quốc gia. Nhóm các cây trồng có lợi thế như dứa, chè và cây ăn quả có múi được đầu tư phát triển cả về diện tích và chất lượng, trở thành những ngành hàng chủ lực, góp phần thay đổi đời sống người dân và bộ mặt nông thôn các tỉnh trong vùng.
Tính đến năm 2024, toàn vùng có hơn 6.800ha trồng dứa, tập trung tại các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, với sản lượng thu hoạch gần 133.000 tấn. Diện tích cây có múi đạt khoảng 11.500ha, sản lượng hằng năm khoảng 130.000 tấn, phân bố tại các tỉnh Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Cây chè có diện tích 10.300ha, sản lượng thu hoạch gần 133.000 tấn, chủ yếu tại Nghệ An, Thanh Hóa và Hà Tĩnh.
Công ty CP Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (DOVECO) được ghi nhận là điển hình trong liên kết sản xuất dứa tại Hà Tĩnh. Sau một năm triển khai, diện tích trồng dứa đã đạt hơn 600ha, năng suất từ 50 - 70 tấn/ha, thu nhập bình quân đạt 500 - 700 triệu đồng/ha. DOVECO kỳ vọng vùng Bắc Trung Bộ sẽ trở thành trung tâm sản xuất, chế biến dứa hàng đầu cả nước, với tiềm năng phát triển lên tới 70.000ha vùng nguyên liệu.
Dù có nhiều lợi thế phát triển, nếu không gắn các cây trồng chủ lực của vùng với thị trường, nông dân có thể rơi vào cảnh “được mùa mất giá”. Theo bà Bùi Thị Hồng Hà, Trưởng phòng Vi sinh nông nghiệp, Trung tâm Nông nghiệp Hữu cơ, Viện Nông nghiệp Việt Nam, nhiều hộ trồng dứa vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa nắm vững kỹ thuật, dẫn đến chất lượng sản phẩm không đồng đều, khó đáp ứng yêu cầu của chuỗi xuất khẩu chính ngạch. Sản xuất cây ăn quả có múi cũng đối mặt tình trạng suy thoái nghiêm trọng.
TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc, Phó Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật, cho biết, tại Nghệ An, diện tích trồng cam đã giảm từ hơn 5.400ha xuống còn 2.500ha; hàng trăm hecta bưởi Thanh Trà ở Huế bị chết trắng. Nguyên nhân chủ yếu là do giống cây trồng kém chất lượng, đất đai bị thoái hóa do lạm dụng phân bón hóa học và dịch bệnh như vàng lá Greening hoành hành.
Ngoài ra, sản xuất nông nghiệp của vùng còn gặp nhiều điểm nghẽn như: tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu, khó khăn trong chuẩn hóa vùng nguyên liệu, mô hình sản xuất còn nhỏ lẻ, thiếu liên kết chuỗi, thiếu hụt hạ tầng logistics…
.jpeg)
Mở cửa đón đầu tư cho nông sản chủ lực
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Văn Đệ cho biết, ngành hàng chè và dứa của Nghệ An vẫn gặp khó khăn trong khâu chế biến và mở rộng thị trường trong nước lẫn xuất khẩu. Đặc biệt, tỉnh hiện còn thiếu các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực chế biến chè. Ông Đệ mong muốn mời gọi các doanh nghiệp đến hợp tác, phát triển các ngành hàng này. Để “trải thảm đỏ” thu hút đầu tư, tỉnh đã quy hoạch vùng nguyên liệu và quỹ đất để xây dựng nhà máy sản xuất, chế biến; đồng thời ban hành nhiều chính sách khuyến khích người dân mở rộng sản xuất các loại cây trồng chủ lực như chè, dứa, cam.
Nghệ An cũng áp dụng các ưu đãi về đất đai, thuế, hạ tầng và vùng nguyên liệu dành cho nhà đầu tư. Tỉnh thúc đẩy chuyển đổi số, sản xuất theo quy trình GlobalGAP, VietGAP, ưu tiên truy xuất nguồn gốc, minh bạch mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói... Ngoài ra, tỉnh sẽ chủ động kết nối chặt chẽ hơn với các địa phương trong vùng để hình thành “cụm liên kết nông nghiệp vùng”, thống nhất tiêu chuẩn, lịch thời vụ và quy mô vùng nguyên liệu.
Với nhiều tiềm năng phát triển cây chè, dứa và cây ăn quả có múi, ông Nguyễn Đức Cường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thanh Hóa, cho biết, để phát triển thị trường xuất khẩu sâu rộng và bền vững, tỉnh sẽ gắn chuỗi sản xuất với khoa học, công nghệ; đẩy mạnh chế biến sâu và xây dựng thương hiệu nông sản. Tỉnh cũng sẽ mở rộng quy hoạch vùng trồng cây ăn quả, xúc tiến thương mại, kêu gọi đầu tư, phát triển thị trường trong và ngoài nước. Đáng chú ý, Sở đang triển khai lập bản đồ thổ nhưỡng nhằm xác định cây trồng phù hợp và nâng cao hiệu quả sản xuất.
Từ góc độ doanh nghiệp, DOVECO đề xuất cần có định hướng rõ ràng về cây trồng thế mạnh, tránh tình trạng manh mún, tự phát. Chính quyền địa phương cần có chính sách hỗ trợ người dân, nhất là trong giai đoạn đầu thử nghiệm giống cây mới. Doanh nghiệp sẵn sàng đồng hành, bao tiêu sản phẩm cho nông dân, nhưng rất cần vai trò hỗ trợ của Nhà nước nhằm giảm thiểu rủi ro trong giai đoạn đầu chuyển đổi cây trồng.
PGS.TS. Lê Quốc Doanh, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, nhấn mạnh: để khai mở tiềm năng nông sản Bắc Trung Bộ, cần bắt đầu từ việc thay đổi tư duy canh tác, đầu tư bài bản và có chiến lược dài hạn. Với sự đồng hành của doanh nghiệp, sự chủ động của địa phương và người dân, cùng các nguồn hỗ trợ kỹ thuật từ quốc tế, Bắc Trung Bộ hoàn toàn có thể hình thành những vùng sản xuất lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Ông Doanh cũng khẳng định vai trò của liên kết "bốn nhà" - Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp - trong việc xây dựng các chuỗi giá trị bền vững. Chỉ khi nông sản được quy hoạch hợp lý, gắn với thị trường và công nghệ, các sản phẩm như dứa, chè và cây có múi mới có thể góp phần nâng tầm kinh tế cho cả vùng.