Không có ngựa, không phải Mông Cổ!
Ngựa gắn chặt với lịch sử và văn hóa của người Mông Cổ. Khi những chú ngựa đầu tiên được thuần hóa trên thảo nguyên Lưỡng Hà, Trung Quốc (khoảng 4.000 năm trước CN), văn minh loài người đã có một bước tiến dài. Và ở thế kỷ XXI này, Mông Cổ vẫn giữ nền văn hóa gắn với ngựa và duy trì truyền thống nuôi ngựa.
Tầm quan trọng của ngựa trong khai hoang, nông nghiệp, chiến tranh, thể thao đều được ghi lại trong nghệ thuật, thần thoại của người Scythia, Assyria (qua văn hóa Hy Lạp, La Mã). Chỉ xét riêng vai trò là phương tiện di chuyển của con người, ngựa đã làm nên những thay đổi kỳ diệu ở nhiều nền văn hóa. Dân du mục đến được những vùng núi châu Á, về phía bắc và phía đông châu Á đều nhờ loài vật này. Những ngôi làng đầu tiên của châu Á cũng bắt đầu những hoạt động sống đầu tiên cùng với ngựa, từ di chuyển đến thồ đồ đạc, thậm chí làm thực phẩm (thịt ngựa, sữa ngựa).

Thật khó tưởng tượng cuộc sống, lịch sử của dân du mục nói chung và dân du mục Mông Cổ nói riêng khi không có ngựa. Ngựa là tốc độ và với dân du mục thì tốc độ chính là sức mạnh. Ngựa là một trong những nhân tố chính làm nên thành công và sức mạnh của người Mông Cổ. Ngựa được đặt ở một vị trí trân trọng trong đời sống văn minh của người Mông Cổ. Một người sống tại Thủ đô Ulaanbataar chia sẻ: “Người Mông Cổ chúng tôi luôn trân trọng ngựa. Nó là bạn đồng hành của chúng tôi, cả ngày lẫn đêm; là nguồn cội niềm vui, niềm tự hào. Không có hoạt động nào của người Mông Cổ mà không có sự hiện diện của ngựa”.
Mông Cổ là đất nước duy nhất mà ngựa là trung tâm trong cuộc sống hàng ngày (cho đến tận bây giờ). Trẻ em Mông Cổ học cưỡi ngựa ngay khi biết đi và cho đến nay, người Mông Cổ vẫn đứng đầu thế giới về khả năng cưỡi ngựa. Chủ tịch Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Môi trường Mông Cổ J. Tserendeleg cho biết: “Tôi nghĩ, không thể thấy được tương lai của Mông Cổ nếu thiếu ngựa. Mông Cổ sẽ không là Mông Cổ nếu không có ngựa”.
Văn hóa Mông Cổ vì thế mà cũng không thể thiếu ngựa. Đua ngựa ở Mông Cổ hiện là nghệ thuật dân gian thu hút sự quan tâm không những của người nước này mà còn hàng nghìn khách du lịch quốc tế qua Lễ hội Naadam tổ chức hàng năm. Hàng nghìn con ngựa được tập hợp để đua. Người cầm cương là các cô bé, cậu bé 5 - 12 tuổi. Có 6 nội dung đua, tùy thuộc vào độ tuổi của ngựa, từ 1 (Daaga) - 5 tuổi (Ih Nas). Mỗi lần đua có gần 500 con ngựa, thậm chí có lần 1.000 con cùng đua. Trước đó, ngựa đua được huấn luyện với phương pháp đặc biệt, truyền từ đời này sang đời khác. Mỗi nhóm ở mỗi địa phương có bí quyết huấn luyện ngựa riêng.
![]() Biểu diễn đàn đầu bò ngay trên thảo nguyên ![]() |
Người Mông Cổ cũng sáng tạo ra nhiều loại nhạc cụ, trong đó Morin khuur (Mã đầu cầm), hình đầu ngựa, có 2 dây được làm từ lông đuôi ngựa, là một trong những nhạc cụ quan trọng nhất, được coi là biểu tượng của đất nước Mông Cổ. Morin khuur thậm chí còn được UNESCO đưa vào danh sách Kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Âm thanh Morin khuur tạo ra được miêu tả là phóng khoáng, mênh mang như tiếng hí của ngựa hoang, hay giống cơn gió nhẹ trên thảo nguyên bát ngát. Morin khuur thường được dùng để đệm cho những bài trường ca ca ngợi vẻ đẹp của đồng quê và hồi tưởng cuộc sống du mục...
Nhiều người truyền tai nhau rằng ở Mông Cổ có tín ngưỡng thờ ngựa. Nguồn gốc của tin đồn này là Takhi, một giống ngựa hoang, trong tiếng Mông Cổ có nghĩa là tinh thần, (được coi là) đã tuyệt chủng trong tự nhiên từ những năm 1960. Takhi sở hữu khả năng phi cực nhanh, đã có thời các kỵ sỹ Mông Cổ ngày đêm tìm cách khống chế Takhi để mong chú ngựa cái của mình được phối giống với nó, nhưng họ chưa bao giờ làm được điều đó. Người Mông Cổ coi Takhi là bảo vật quốc gia. Việc một số chương trình lên kế hoạch đưa loài ngựa này trở lại các thảo nguyên ở Mông Cổ và sa mạc Gobi có ý nghĩa lớn với đất nước Mông Cổ, nơi ngựa là biểu tượng của tự do và hạnh phúc. Theo ông J. Tserendeleg, “lịch sử Mông Cổ gắn chặn với ngựa. Takhi đã và sẽ mãi được người Mông Cổ thờ phụng”.