Việt Nam cần khoảng 370 tỷ USD để tăng trưởng xanh
Bà Đỗ Thị Phương Lan, Tổng Biên tập Tạp chí Kinh tế và Dự báo cho biết, Việt Nam xác định ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách. Tháng 10.2021, Thủ tướng ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn năm 2050, hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.
Để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng xanh, Việt Nam cần nguồn lực rất lớn, bà Lan nói.
Theo ước tính của Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), để thực hiện cam kết phát thải ròng về 0 vào năm 2050, Việt Nam cần khoảng 330 - 370 tỷ USD.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhu cầu tài chính cho các biện pháp giảm phát thải trong từng lĩnh vực theo cam kết môi trường của Việt Nam đến năm 2030 là khoảng 68,75 tỷ USD. Trong đó, nguồn quốc gia tự thực hiện dự báo khoảng 24,722 tỷ USD, chiếm 36% và nhu cầu đối với nguồn lực hỗ trợ của quốc tế dự kiến khoảng 44,028 tỷ USD, chiếm 64%.
Đặc biệt, Việt Nam cần nhiều nguồn lực hơn nữa để đạt được các cam kết về khí hậu theo Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 26 (COP26), nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu và các mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững quốc gia.
"Do đó, việc huy động và phân bổ hiệu quả nguồn lực tài chính trong và ngoài nước, từ các khu vực khác nhau trong nền kinh tế là rất quan trọng và cấp thiết nhằm đáp ứng các mục tiêu tăng trưởng xanh, hướng đến phát triển bền vững", bà Lan nói.
Ông Lê Hoàng Lân, đại diện Vụ Tài chính, tiền tệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, hiện nay, chính sách, định hướng phát triển tài chính xanh cũng như về tín dụng xanh, trái phiếu xanh đã được ban hành khá đầy đủ.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi xanh. Các dự án xanh hiện tại còn dàn trải, phân mảnh, chủ yếu được tổ chức theo từng bộ ngành, lĩnh vực, thiếu cơ chế hỗ trợ xuyên suốt cho các công nghệ xanh mới và đột phá.
Từ thực tiễn, bà Diệp Thị Kim Hoàn, Giám đốc Phát triển Bền vững, Tổ hợp Khu công nghiệp DEEP C, nêu một số khó khăn của doanh nghiệp trong quá trình tiếp cận tài chính xanh. Đó là thiếu thông tin về các đơn vị cấp tín dụng xanh; tiêu chí dự án xanh chưa cụ thể, rõ ràng. Các quỹ tín dụng xanh thường không chấp nhận tài sản đảm bảo, doanh nghiệp cần có bảo lãnh ngân hàng. Các dự án quy mô nhỏ nên khó tiếp cận vốn vay nước ngoài...
Nâng cao khả năng huy động và sử dụng các công cụ tài chính xanh
Theo các chuyên gia, Việt Nam đã có những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tăng trưởng xanh. Trong bối cảnh hiện tại, cần xây dựng và triển khai toàn diện các định hướng và giải pháp tài chính xanh để đổi mới mô hình tăng trưởng xanh. Đặc biệt, cần tập trung vào việc nâng cao khả năng huy động và sử dụng các công cụ tài chính xanh, đồng thời đảm bảo đầu tư hiệu quả.
TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị, thời gian tới cần gắn kết các chiến lược, kế hoạch phát triển xanh và tài chính xanh với quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Chính phủ sớm ban hành Danh mục phân loại xanh, trong đó nên có xác định lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên và tổ chức thẩm định/xác nhận đủ tiêu chuẩn xanh. Ban hành chính sách định hướng thay đổi hành vi; khuyến khích, hỗ trợ đổi mới sáng tạo cho xe điện, xe tiết kiệm năng lượng.
Bên cạnh các hỗ trợ tài chính về thuế, phí, lãi suất, gồm cả chi phí xác nhận xanh, nếu có… cho các sản phẩm, dịch vụ xanh, cần sớm nghiên cứu thành lập Quỹ chuyển đổi xanh, Quỹ đầu tư mạo hiểm xanh, Quỹ tăng trưởng xanh; xây dựng hệ sinh thái tài chính xanh; thành lập thị trường tín chỉ Carbon.
Đồng thời, thu hút nhân lực gắn với đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tham gia quá trình xanh hóa bao gồm cả cơ quan quản lý, nhà đầu tư/nhà băng, nhà trường… Xây dựng cơ sở thông tin, dữ liệu phục vụ dự báo, cảnh báo và quản lý rủi ro môi trường, biến đổi khí hậu…
Ở góc độ ngành tài chính, TS. Nguyễn Thanh Nga, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính đề xuất nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường nhằm bao phủ được các nguồn gây tổn hại cho môi trường đảm bảo thực hiện hiệu quả nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Bà Nga cũng kiến nghị rà soát tổng thể các chính sách ưu đãi về thuế, dành sự ưu tiên lớn hơn cho các dự án tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu. Đồng thời, tăng chi thường xuyên cho bảo vệ môi trường.
Cùng với đó, rà soát đầu tư công làm nền tảng, cơ sở cho huy động các nguồn vốn khác cho đầu tư tăng trưởng xanh. Rà soát, phối hợp các chương trình, đề án, nguồn vốn (ODA, đầu tư tư nhân..) có mục tiêu liên quan đến tăng trưởng xanh tăng cường hiệu quả chính sách. Hoàn thiện các quy định về mua sắm công xanh, chẳng hạn hoàn thiện các quy định ưu tiên mua sắm sản phẩm dán nhãn sinh thái, nhãn năng lượng trong Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công hoặc ban hành quy chế mua sắm công xanh đối với các sản phẩm thân thiện với môi trường, bà Nga nhấn mạnh.