Khẳng định địa vị pháp lý của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng
Quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, không còn phù hợp thực tiễn, gây khó khăn trong tổ chức thực hiện, ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng Quân đội. Vì vậy, việc xây dựng dự án Luật khẳng định rõ hơn địa vị pháp lý của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng, khắc phục bất cập trong quản lý, sử dụng làm cơ sở hoạch định chế độ, chính sách...
![]() |
Cần xác định rõ vị trí, chức năng của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng
Tại Điều 4, Điều 5, Điều 6 của dự thảo Luật có quy định về vị trí, chức năng của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng, phát biểu giải trình đại diện Ban soạn thảo cho biết, trong tổ chức biên chế của Quân đội nhân dân, bao gồm các thành phần là cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức như quy định tại Điều 68 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, việc quy định riêng biệt vị trí, chức năng của từng thành phần trong dự thảo Luật là để khẳng định rõ địa vị pháp lý của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng, khắc phục những bất cập trong quản lý, sử dụng làm cơ sở để góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và hoạch định chế độ, chính sách cho các đối tượng này phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của Quân đội là ngành lao động đặc biệt.
Về vấn đề này, Trưởng Ban Dân nguyện Nguyễn Đức Hiền cho rằng, ghi như trong dự thảo Luật về cơ bản đã xác định rõ vị trí, chức năng của quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng. Tuy nhiên, Trưởng Ban Dân nguyện bày tỏ băn khoăn, cả ba đối tượng này đều trong tổ chức biên chế của Quân đội nhân dân đều phục vụ cho mục tiêu là xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại để bảo vệ Tổ quốc. Nhưng tại Điều 3 của dự thảo Luật phần giải thích từ ngữ lại ghi công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng không phải là quân nhân nhưng thuộc tổ chức, biên chế Quân đội nhân dân. Vậy quy định như dự thảo có hợp lý chưa ? Theo đó, Trưởng Ban Dân nguyện đề nghị nên gộp 3 điều này thành một điều và quy định thành 3 khoản riêng cho từng đối tượng cho phù hợp với tổ chức, biên chế của quân đội và Bộ Quốc phòng.
Cán bộ cấp tá có chuyên môn về khoa học công nghệ nghỉ hưu sớm thì có hợp lý ?
Điều 14, khoản 1 của dự thảo Luật Quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng. Hạn tuổi và thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân chuyên nghiệp quy định: Hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của quân nhân chuyên nghiệp theo cấp bậc quân hàm: |
Giải trình về hạn tuổi và thời hạn phục vụ tại ngũ của quân nhân chuyên nghiệp quy định tại khoản 1, Điều 14 của dự thảo, đại diện ban soạn thảo cho rằng, về hạn tuổi phục vụ quân đội: Điều 47 Luật Nghĩa vụ quân sự và các văn bản pháp luật hiện hành quy định “Quân nhân chuyên nghiệp có thể phục vụ tại ngũ từng thời hạn hoặc dài hạn cho đến 50 tuổi”, đến nay không còn phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và các văn bản pháp luật có liên quan như Bộ Luật lao động, Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật bảo hiểm xã hội.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính và Ngân sách Phùng Quốc Hiển, chiến tranh đang diễn ra trên thế giới là chiến tranh công nghệ cao, không những vậy mà chiến tranh hiện nay còn thể hiện trí tuệ cao, như chiến tranh tiền tệ. Trong đó có lực lượng quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng có trình độ cao nhưng tại sao trong dự thảo luật lại quy định “trần” nghỉ hưu chỉ đến tuổi 56 và cấp bậc chỉ là Thượng tá chứ không phải là Đại tá ? Quy định như vậy liệu có tự mình “bó hẹp” ? và theo đó liệu có thu hút được nhân tài, nhất là trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Phó chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho rằng độ tuổi 50 của những cán bộ làm khoa học công nghệ là độ tuổi nhiều kinh nghiệm và đang có nhiều cống hiến cao nhất. Với một đội ngũ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ giỏi đang cần cho Quân đội, nhưng đã được nghỉ hưu sớm như vậy sẽ gây lãng phí nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng Quân đội. Mặt khác, theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, để được hưởng mức lương hưu là 75% thì người lao động phải có từ 35 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên đối với nam và 30 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên đối với nữ. Việc quân nhân chuyên nghiệp chỉ phục vụ tại ngũ đến 50 tuổi như quy định hiện hành sẽ không đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội để được hưởng mức lương hưu là 75%, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tâm tư nguyện vọng, đời sống của quân nhân chuyên nghiệp và gia đình. Phó chủ tịch đề nghị cần tính toán lại quy định ở Điều 14 để vừa bảo đảm quyền lợi cho đội ngũ quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng vừa bảo đảm thống nhất với quy định ở Luật bảo hiểm xã hội.