Hướng tới sản xuất bền vững, giảm phát thải và nâng cao hiệu quả sản xuất
Việt Nam đang từng bước chuyển đổi nền nông nghiệp từ số lượng sang chất lượng, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Theo TS. Nguyễn Đăng Nghĩa, việc áp dụng các giải pháp hiệu quả cùng chính sách hỗ trợ hợp lý sẽ giúp nông sản Việt Nam an toàn, giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao hiệu quả sản xuất, đồng thời góp phần hạn chế nguy cơ về sức khỏe cho người dân.
Chia sẻ tại tọa đàm “Hướng tới mục tiêu Net Zero – Cơ hội và thách thức” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức chiều 17/10, Chuyên gia nông nghiệp – Tiến sĩ Nguyễn Đăng Nghĩa cho rằng, việc chuyển đổi nền nông nghiệp Việt Nam từ sản xuất đại trà sang hướng chất lượng, bền vững là yêu cầu cấp thiết. Mục tiêu của quá trình này là xây dựng những sản phẩm nông nghiệp được dán nhãn, giảm phát thải, đảm bảo an toàn thực phẩm, đồng thời hạn chế tình trạng tỷ lệ ung thư cao hiện nay, phần lớn do môi trường và các hoạt động sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ.

Để thực hiện mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành kế hoạch giai đoạn 2025–2035, trong đó dự kiến xây dựng ít nhất 15 vùng trồng phát thải thấp. Các loại cây được dán nhãn gồm lúa, cà phê, hồ tiêu, thanh long, cây ăn quả và sầu riêng, với mục tiêu giảm 30% lượng khí mê-tan (CH4) vào năm 2035. Kế hoạch đi kèm với năm gói kỹ thuật sản xuất cho các loại cây trồng này và bảy nhóm giải pháp: tăng cường năng lực quản lý trồng trọt; áp dụng khoa học công nghệ và chuyển giao kỹ thuật; xây dựng hệ thống quản lý dữ liệu phát thải; tổ chức sản xuất; đào tạo và truyền thông nâng cao nhận thức của nông dân và cán bộ quản lý; huy động nguồn lực tài chính và thị trường; cùng các giải pháp quốc tế và hội nhập.
Trên cơ sở đó, TS. Nguyễn Đăng Nghĩa đã đề xuất một số giải pháp cụ thể:
Thứ nhất, đẩy mạnh sản xuất bao trả (trồng cây che phủ) để phục hồi độ phì và sức khỏe của đất, đặc biệt ở Đồng bằng sông Cửu Long. Việc xã hội hóa và hỗ trợ chính sách là cần thiết, ví dụ bù giá mua bao trả thông qua chứng chỉ carbon từ các doanh nghiệp gây ô nhiễm, giúp nông dân dễ tiếp cận và áp dụng. Đồng thời, việc tận dụng 15 triệu tấn phụ phẩm từ sản xuất nông nghiệp để tái sản xuất theo mô hình "nông nghiệp tuần hoàn" cũng được khuyến khích.
Thứ hai, phát triển mô hình trồng bèo hoa dâu, một loại cây bản địa được đánh giá cao trên thế giới. Với mô hình nuôi bèo thô 1 ha có thể phục vụ cho 200 ha lúa, với mức phát thải thấp hơn tám lần so với cây lâm nghiệp. Khi xen canh với lúa, bèo hoa dâu giúp giảm 30–40% lượng khí N2O, đồng thời tăng năng suất và trừ cỏ hiệu quả.
TS. Nguyễn Đăng Nghĩa cho rằng, để các giải pháp này thành công, cần sự phối hợp đồng bộ từ Quốc hội, chính quyền địa phương, hợp tác xã nông nghiệp và cơ quan truyền thông. Nếu được triển khai rộng rãi, đặc biệt tại Đồng bằng sông Cửu Long, việc phát triển bao trả, tận dụng phụ phẩm và phát triển mô hình trồng bèo hoa dâu sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, môi trường và sức khỏe cộng đồng đáng kể.

