Học viện Tài chính đóng góp góc nhìn chiến lược trong tọa đàm sửa đổi Luật Dự trữ quốc gia
Tại tọa đàm “Lấy ý kiến chuyên gia về hoàn thiện chính sách dự trữ chiến lược trong sửa đổi Luật Dự trữ quốc gia”, TS Nguyễn Văn Bình - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường Học viện Tài chính đề xuất nhiều giải pháp quan trọng về hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực quản trị và phát triển mô hình “dự trữ chiến lược” như một công cụ điều tiết chủ động của Nhà nước hiện đại.
Tọa đàm “Lấy ý kiến chuyên gia về hoàn thiện chính sách dự trữ chiến lược trong sửa đổi Luật Dự trữ quốc gia” do Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội tổ chức ngày 16/10.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phạm Thuý Chinh chủ trì toạ đàm. Tham dự có đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương và nhiều chuyên gia, nhà khoa học.


Bước ngoặt chiến lược trong quản trị quốc gia
Đại diện Học viện Tài chính, TS Nguyễn Văn Bình, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường Học viện đã tham luận và đề xuất nhiều giải pháp quan trọng về hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực quản trị và phát triển mô hình “dự trữ chiến lược” như một công cụ điều tiết chủ động của Nhà nước hiện đại.
Theo TS Nguyễn Văn Bình, dự trữ quốc gia là nguồn lực dự phòng chiến lược của Nhà nước hiện đại, giữ vai trò đặc biệt trong bảo đảm an ninh kinh tế, an sinh xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô.
Ông nhấn mạnh, việc sửa đổi Luật Dự trữ quốc gia lần này là bước ngoặt chiến lược trong quản trị quốc gia, nhằm chuyển từ “ứng phó bị động” sang “chủ động kiến tạo”, từ “quản lý hàng hóa” sang “quản trị nguồn lực chiến lược”.

Từ nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm quốc tế, TS Nguyễn Văn Bình đề xuất 4 nhóm định hướng trọng tâm.
Thứ nhất, hoàn thiện tư duy chiến lược, coi dự trữ quốc gia là công cụ điều tiết kinh tế, trụ cột ổn định xã hội.
Thứ hai, xây dựng khung pháp lý hiện đại, minh bạch, đồng bộ với hệ thống luật tài chính, ngân sách và quản lý tài sản công.
Thứ ba, ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn, đầu tư kho thông minh, trung tâm điều hành số hóa.
Thứ tư, phát triển hợp tác công - tư, huy động doanh nghiệp tham gia vận hành, lưu thông, bảo quản hàng dự trữ, giảm gánh nặng ngân sách.
“Dự trữ quốc gia cần được nhìn nhận như nguồn lực yên lặng nhưng quyền năng - công cụ của Nhà nước kiến tạo phát triển. Một khuôn khổ pháp luật đồng bộ, hiện đại sẽ giúp dự trữ quốc gia thực sự trở thành nền tảng bảo vệ an ninh kinh tế và phát triển bền vững”, Chủ tịch Hội đồng trường Học viện Tài chính khẳng định.
Đổi mới tư duy chiến lược: Dự trữ để kiến tạo phát triển
Theo Tờ trình của Bộ Tài chính, Luật Dự trữ quốc gia hiện hành sau hơn 12 năm thực hiện đã góp phần chủ động đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đột xuất, cấp bách của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn phát sinh nhiều vướng mắc: chính sách với người làm công tác dự trữ quốc gia chưa phù hợp; phạm vi điều chỉnh và thẩm quyền quản lý chưa thống nhất với các luật mới ban hành như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý tài sản công; quy trình xuất – nhập, điều chuyển hàng dự trữ còn bất cập.
Đặc biệt, luật hiện hành chưa quy định rõ nội dung “dự trữ chiến lược” và chưa cho phép sử dụng hàng dự trữ quốc gia để phục vụ mục tiêu an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội. Một số tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hàng hóa chưa được điều chỉnh kịp thời, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả quản lý.
Từ thực tế đó, Bộ Tài chính xác định việc sửa đổi Luật Dự trữ quốc gia nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, bảo đảm thống nhất, đồng bộ hệ thống pháp luật, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác dự trữ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.
Dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) được rút gọn từ 6 chương, 35 điều xuống 6 chương, 31 điều, nhưng mở rộng đáng kể phạm vi và mục tiêu. Nếu luật hiện hành chỉ giới hạn phục vụ “nhiệm vụ đột xuất, cấp bách” (thiên tai, dịch bệnh, cứu đói, quốc phòng, an ninh), thì dự thảo mới bổ sung mục tiêu an sinh xã hội và phát triển kinh tế - xã hội, cho phép Nhà nước sử dụng hàng dự trữ để điều tiết thị trường, ổn định giá cả và hỗ trợ vùng khó khăn.
Một chương mới được bổ sung quy định về “Dự trữ chiến lược”, xác định đây là công cụ quản lý, khai thác và huy động các nguồn lực của nền kinh tế để đảm bảo quốc gia vận hành ổn định, hiệu quả theo quy luật thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Dự trữ chiến lược sẽ tập trung vào các mặt hàng, vật tư, thiết bị, tài nguyên thiết yếu – phục vụ cả mục tiêu an ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế lâu dài.
Cùng với đó, dự thảo đẩy mạnh phân quyền, phân cấp và đơn giản hóa quy trình quản lý hành chính, giao Chính phủ quyền quy định chi tiết danh mục hàng dự trữ quốc gia, thay vì phải chờ Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt như trước. Cơ chế này giúp Nhà nước chủ động, linh hoạt ứng phó với biến động thị trường, thiên tai hoặc khủng hoảng.
Về cơ cấu tổ chức, dự thảo phân định rõ trách nhiệm của Bộ Tài chính, các bộ, ngành và địa phương, đồng thời xóa bỏ quy định cứng về thẩm quyền Quốc hội và Thủ tướng trong Luật, để được cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật khác, bảo đảm thống nhất trong hệ thống hành chính nhà nước.
Xác định rõ cơ cấu và quản lý dự trữ chiến lược
Tại tọa đàm, các đại biểu và chuyên gia đều đánh giá cao tinh thần đổi mới của dự thảo, coi đây là bước ngoặt chuyển đổi mô hình dự trữ quốc gia từ “cứu trợ thụ động” sang “dự trữ chiến lược và công cụ điều tiết chủ động”.


Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Hữu Chí, Đại biểu Quốc hội khóa XII, cho rằng điểm mới quan trọng nhất là bổ sung quy định về dự trữ chiến lược, giúp hệ thống dự trữ trở thành trụ cột bảo đảm an ninh quốc gia và phát triển bền vững.
Ông đề xuất cần xác định rõ cơ cấu của dự trữ chiến lược gồm: Dự trữ tài chính (quỹ dự phòng ngân sách, trái phiếu chính phủ, vàng, ngoại hối); Dự trữ hàng hóa thiết yếu (xăng dầu, lương thực, kim loại, vaccine, năng lượng, sản phẩm công nghệ cao…); Dự trữ dài hạn cho phát triển xã hội (giáo dục, y tế, năng lượng xanh).
Sự xuất hiện của sản phẩm công nghệ cao trong danh mục dự trữ chiến lược được xem là điểm đột phá, phản ánh xu thế chuyển đổi số và phát triển khoa học công nghệ hiện nay.
Nguyên Thứ trưởng Nguyễn Hữu Chí nhấn mạnh, cần làm rõ chủ thể quản lý, quy mô, cách thức vận hành từng loại dự trữ, bảo đảm tính kịp thời, hiệu quả và minh bạch. Đồng thời, chính sách phải mở và rõ ràng để huy động các thành phần kinh tế cùng tham gia, thúc đẩy mô hình hợp tác công – tư (PPP), hài hòa lợi ích Nhà nước và doanh nghiệp, giảm gánh nặng ngân sách, tăng luân chuyển hàng hóa và hiệu quả dự trữ.
Về khía cạnh điều tiết thị trường, các đại biểu đề nghị Chính phủ cần quy định cụ thể thẩm quyền, tiêu chí và trường hợp can thiệp bằng dự trữ chiến lược, tránh sự chủ quan, bảo đảm tính kỷ luật tài chính và quản trị rủi ro. Đồng thời, cần tăng cường nguồn lực ngân sách để hiện đại hóa hệ thống kho dự trữ bằng công nghệ số và kho thông minh, xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia về dự trữ, giúp giám sát và điều phối kịp thời.
Nhiều ý kiến cũng kiến nghị giữ nguyên chính sách đãi ngộ đặc thù cho cán bộ ngành dự trữ, ghi nhận tính chất độc hại, khẩn cấp và trách nhiệm cao của lực lượng này.
GS.TS. Đinh Văn Nhã, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội các khóa XII, XIII, XIV, cho rằng: “Dự trữ quốc gia phải đảm bảo mục tiêu kép - vừa tham gia thị trường kịp thời để điều tiết giá cả, vừa sẵn sàng ứng phó với tình huống khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh và các rủi ro phi truyền thống”.
Một số đại biểu khác cũng đề nghị tách bạch rõ phạm vi điều chỉnh của Luật, tránh lồng ghép giữa “quản lý Nhà nước về dự trữ quốc gia” và “dự trữ chiến lược của Nhà nước” để đảm bảo tính logic và khả thi. Đồng thời, làm rõ nguồn hình thành dự trữ chiến lược, nhất là khi có phần vốn huy động ngoài ngân sách, cần quy định chặt chẽ cơ chế giám sát và kiểm soát dòng vốn.
Về chính sách ưu đãi, cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia dự trữ, thông qua ưu đãi thuế, tín dụng, phí, hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp khi ký hợp đồng chiến lược với Nhà nước.

