"Học tập suốt đời" để bình đẳng hơn nữa với các nước lớn
- Thưa GS.TS Phạm Tất Dong, ông đánh giá thế nào về tầm quan trọng của bài viết về “Học tập suốt đời” của Tổng Bí thư Tô Lâm trong bối cảnh hiện nay?
GS.TS Phạm Tất Dong: Tôi đã đọc bài viết về “Học tập suốt đời” của Tổng Bí thư Tô Lâm và thấy rằng những việc chúng ta đã làm về phong trào học tập suốt đời trong 1/4 thế kỷ qua, đến nay đã có người giúp để đi theo một giai đoạn mới: đưa học tập suốt đời bước vào giai đoạn chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Trước đây, những việc chúng ta làm mang tính chất giáo dục truyền thống nhiều hơn, nhưng hiện nay cần số hóa phong trào này, như vậy mới có thể học suốt đời.
Nếu học suốt đời mà vẫn giữ lối học truyền thống, tức là học trực tiếp sẽ rất hạn chế, bởi người ta không thể nào học mọi lúc, mọi nơi. Chỉ khi tận dụng được công nghệ thông tin, sử dụng các phương tiện di động thông minh, chúng ta mới có thể học bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu.
Như vậy, chúng ta đã bước vào một giai đoạn mới. Hội Khuyến học Việt Nam cũng đã có sự chuẩn bị và đến nay, hầu hết cơ sở ở các địa phương đều đã kết nối mạng và làm được rất nhiều. Các trung tâm học tập cộng đồng ở một số nơi, như Thái Bình, đã bắt đầu tổ chức các lớp học trực tuyến. Tôi đánh giá cao bài viết về “Học tập suốt đời” của Tổng Bí thư Tô Lâm, bởi đã giúp chúng ta định hướng rõ hơn cho một giai đoạn mới.

Tổng Bí thư có một khát vọng là làm thế nào để từ việc học tập suốt đời, cả dân tộc có thể vươn mình mạnh mẽ hơn. Tôi cho rằng "vươn mình" có nghĩa là "cất cánh", cất cánh để bay lên một tầm cao mới. Từ lâu, Bác Hồ đã nhắc đến việc học tập để “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Có lẽ với tinh thần khiêm tốn, Việt Nam chưa phải là một cường quốc đúng nghĩa, nhưng thế giới cũng phải kiêng nể, tôn trọng chúng ta. Muốn trở nên bình đẳng hơn nữa với các nước lớn, chỉ có con đường phát triển mạnh mẽ, mà nền tảng chính là học tập suốt đời.
Để dám nghĩ, dám làm, trước hết phải “dám học”
- Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, đẩy mạnh học tập suốt đời sẽ giúp chúng ta “xây dựng thành công đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, có khát vọng vươn lên, khát vọng phát triển, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm về những quyết định của mình để hiện thực hoá nhiệm vụ cách mạng, tạo ra đột phá vì lợi ích của nhân dân, vì sự phát triển của đất nước”. Quan điểm của ông về mối quan hệ của học tập suốt đời với phẩm chất này ra sao?
GS.TS Phạm Tất Dong: Tôi cho rằng để dám nghĩ, dám hy sinh, dám xả thân, dám làm những việc lớn, trước hết phải “dám học”. Nhiều người rất sợ học, trong đó có nhiều đảng viên, cán bộ, công chức. Họ có thể làm nhiều thứ, nhưng khi nói đến học lại né tránh. Họ có thể có nhiều thì giờ, nhưng không học.
Peter Hollins, tác giả cuốn “Người học suốt đời” từng nói, con người thường có xu hướng thích sự an toàn. Đây là một tâm lý phổ biến. Trong khi đó, muốn phá vỡ tình trạng hiện có để tiến bộ hơn thì phải học, không học không thể làm được. Nhiều người ngại học vì kiến thức quá nhiều và không đủ kiên trì để học. Họ không thể vượt qua nỗi sợ hãi này. Một cuộc khảo sát toàn cầu mà Peter Hollins nhắc đến cho thấy chỉ khoảng 40% người có thể vượt qua giới hạn bản thân, còn hơn 60% vẫn quay về với đời sống “an lành” - đi làm, chơi thể thao, gặp gỡ bạn bè,... thay vì ngồi học.

Theo tôi, điều quan trọng nhất là phải dám vượt qua chính mình, vượt qua khỏi “vùng an toàn” để học tập và từ đó dám làm theo những điều đã học được.
Thực ra, việc học tập cũng giống như bất kỳ công việc nào khác, khởi đầu luôn khó khăn. Nhưng khi đã qua được giai đoạn đầu, chúng ta sẽ nhận ra rằng việc học không đáng sợ. Nếu cố gắng duy trì mỗi ngày một chút, dần dần học sẽ trở thành thói quen. Khi đã hình thành thói quen học tập, chúng ta sẽ khám phá ra nhiều điều đúng đắn, từ đó nhận thức được phải làm tốt hơn.
Những người “dám hy sinh, dám chiến đấu” đều là những người đã hiểu rõ điều này, họ dám nghĩ, dám làm và làm một cách thông minh, hiểu biết pháp luật, văn hóa, chuyên môn và cả phong tục tập quán. Tất cả những điều đó chỉ có thể có được thông qua học tập. Do đó, học vẫn là nền tảng của việc dám nghĩ, dám làm.
Học chính là để chủ động trong bất cứ tình huống nào
- Theo ông, đâu là những thách thức lớn nhất Việt Nam đang phải đối mặt trong phát triển phong trào học tập suốt đời?
GS.TS Phạm Tất Dong: Thách thức đầu tiên mà lâu nay vẫn tồn tại là rất nhiều người không hiểu hết ý nghĩa của học tập suốt đời, họ bằng lòng với việc học một lần trong đời. Tốt nghiệp đại học xong, họ nghĩ rằng đã đủ để làm ăn, kiếm sống và không phải học thêm nữa. Ngay cả nhiều người làm cán bộ lãnh đạo cũng nghĩ rằng đã ngồi ở vị trí này, thấy mọi việc suôn sẻ là đủ mà không thấy rằng nếu học thêm, có thêm kiến thức thì công việc còn trở nên tốt hơn. Việc người ta bằng lòng với học thức, học vấn của họ là trở ngại lớn. Do đó, nhiều người khi được hỏi về đâu là xu thế mới, điều gì là cần thiết cho cơ quan gia đình, dòng họ, cộng đồng của mình trong tương lai,... lại không thể nhận ra.
Trong khi đó, thế giới biến đổi quá nhanh, với những tính chất khó đoán định. Trước hết là sự mơ hồ, thiếu rõ ràng, tạo ra khó khăn trong việc hiểu và đưa ra quyết định. Bên cạnh đó là sự khó đoán định và nhiều điều bất thường. Những điều bất thường xảy ra có thể mang lại hậu quả rất nguy hiểm. Như việc một người chẳng may sa cơ, lỡ vận khi làm ăn, bị phá sản mà không thể lường trước; nhưng khi phá sản thì cần làm thế nào để đứng lên?
Nếu không lường được, biết trước, không theo kịp những biến chuyển đó, chúng ta sẽ trở nên lúng túng và thất bại. Hiện nay, những vấn đề bất thường lớn nhất có thể kể đến như nạn dịch, chiến tranh, kinh tế suy thoái, tệ nạn xã hội,...
Học chính là để chủ động trong bất cứ tình huống nào, dù thế giới có thay đổi đến đâu, chúng ta cũng ứng phó được. Trên thế giới khi xây dựng xã học tập, họ vẫn nói rằng phải làm thế nào để mọi người dân có được những năng lực, giúp họ sống với năng lực ấy. Người dân càng có nhiều năng lực bao nhiêu, Nhà nước càng trao quyền cho họ bấy nhiêu.

Muốn học tập suốt đời, xã học tập phải là xã hội mở
- Trong bài viết của Tổng Bí thư cũng chỉ ra tồn tại “còn tình trạng học theo phong trào, sính bằng cấp mà chưa thực sự căn cứ vào đòi hỏi thực tiễn”, ông có đề xuất giải pháp nào để khắc phục vấn đề này và thúc đẩy việc học thực chất?
GS.TS Phạm Tất Dong: Thực tế, học để lấy bằng cấp là việc “khó mà lại không khó”, vì khi ấy người học chỉ học để đi thi.
Hiện nay, các kỳ thi đôi khi có cả những nội dung nằm ngoài chương trình, hỏi những kiến thức không cần thiết, những lý thuyết mà “học xong thì quên ngay”, nên trẻ phải học thêm, “mất ăn, mất ngủ” ôn tập. Những người học để đi thi thường là học đối phó, học để lấy bằng, có nghĩa thầy cô áp đặt học cái gì thì sẽ học cái đó, phải học theo khuôn mẫu như vậy mới có bằng. Những kiến thức được học là do khuôn mẫu này, không phải là vì cuộc sống đòi hỏi ở thế hệ trẻ. Tôi cho rằng phải chống được lối nghĩ “đi học để đi thi” và giúp mỗi người có thể học những điều người ta cần.
Xã hội học tập là mang lại cho người dân những kiến thức họ đang cần, bằng những phương pháp mà họ thấy hợp lý, không phải dạy những điều mà bản thân người dạy muốn, không phải dạy theo chương trình Nhà nước quy định một cách ngặt nghèo và rất eo hẹp. Bởi lẽ thực tế, học theo sách giáo khoa tức là học theo một khuôn khổ rất hẹp, còn kiến thức lại rộng lớn như biển cả.
Trong bài viết, Tổng Bí thư đã nói đúng vào điều mà thế hệ trẻ hiện nay đang mong muốn: đó là học những điều trong tương lai họ cần, thay vì học những điều mà các thầy cô hay bố mẹ mong muốn.
- Với kinh nghiệm của mình, ông có thông điệp gì để khuyến khích tinh thần học tập suốt đời của người dân, góp phần vào phát triển bền vững của đất nước?
GS.TS Phạm Tất Dong: Mong muốn cơ bản nhất của mỗi người dân là có một đời sống tốt, được khẳng định vai trò trong xã hội, được đóng góp, sống bình đẳng với mọi người, được mọi người tôn trọng.
Do đó, chúng ta cần khơi gợi cho cho thế hệ trẻ thấy rằng họ phải làm thế nào để đóng góp nhiều hơn cho đất nước, cải thiện đời sống gia đình và xa hơn, với lý tưởng cao hơn là đóng góp ít nhiều cho sự phát triển bền vững của thế giới. Đừng cho rằng chỉ là một công dân của một nước mà nghĩ đến đóng góp cho thế giới là viển vông! Ý thức ấy là điều cần có.
Nếu khơi gợi được cho người dân thấy rằng học trước hết là cho mình, sau đó là cho đất nước, cộng đồng xung quanh thì chắc chắn người ta sẽ chú ý đến việc học và khi ấy học tập sẽ mang lại niềm vui hơn là sự sợ sệt. Còn nếu bước vào học lại thấy không thích, không vui, nặng nề hoặc thấy “đi học là thừa thãi, mất thì giờ” thì như vậy là giáo dục thất bại.
Bên cạnh đó, đã đến giai đoạn phải có giáo dục mở. Trong việc học tập của hệ thống mở, không người nào phải chờ đợi người nào. Hiện nay, chúng ta học theo lớp, tất cả đều phải học trong 12 năm mới xong THPT, nhưng biết đâu có những người chỉ cần 10 năm, thậm chí ít hơn đã có thể học xong toàn bộ kiến thức đến lớp 12? Nếu cứ phải chờ đợi, những cá nhân xuất sắc như vậy sẽ mất rất nhiều năm.
Chúng ta nói rằng nền giáo dục này là để phát triển năng lực và đánh giá theo năng lực, nhưng khi đánh giá lại phải xem lý lịch có học đủ 12 năm không, chưa đủ thì kết luận là không có năng lực. Theo tôi, không nên bắt buộc người ta học theo một khuôn mẫu và một quy chế cứng nhắc.
Xã hội học tập sẽ thực hiện học tập suốt đời. Muốn học tập suốt đời thì xã hội học tập phải là xã hội mở, một nền giáo dục mở. Mà giáo dục mở thì thực chất không có rào cản, có nghĩa người ta học kiểu nào cũng được, cần mở hết điều kiện thuận lợi cho người ta đi học.
Tôi lấy ví dụ về một trong những rào cản là học phí và các phụ phí. Rào cản này nên được gạt bỏ, bởi đã đi học thì phải được bình đẳng, được tạo điều kiện thuận lợi. Một nền giáo dục đắt đỏ là không phù hợp. Với những nước phát triển, sách giáo khoa cũng đã được miễn phí.
Còn nhiều rào cản khác liên quan đến các quy định, quy chế, pháp lý. Đơn cử như giáo viên cần học để làm chủ công nghệ thông tin, nhưng lại bị yêu cầu học thêm nhiều thứ không cần thiết chỉ để có bằng cấp công nhận. Việc nâng lương lại căn cứ vào những bằng cấp này, thay vì ở việc thầy cô đã nâng cao trình độ dạy học như thế nào, thay đổi phương pháp giảng dạy tích cực ra sao,...
- Trân trọng cảm ơn GS.TS Phạm Tất Dong đã chia sẻ!