Các yếu tố nguy cơ gây ung thư tuyến giáp cần lưu ý

- Thứ Hai, 26/12/2022, 07:15 - Chia sẻ

Trong thời gian gần đây, tỷ lệ bệnh nhân mắc ung thư tuyến giáp có xu hướng gia tăng. Theo thống kê của Mỹ, tỷ lệ phát hiện ung thư tuyến giáp đã tăng lên khoảng 4,5%/năm trong vòng 10 năm qua, tăng nhanh hơn bất kỳ các loại ung thư nào khác.

Ở Việt Nam, ung thư tuyến giáp xếp hàng thứ 8 trong các ung thư  ở nữ giới và những ca mắc mới tăng gấp 4 lần so với trước đây. Nhưng thật sự may mắn là ung thư tuyến giáp biệt hóa tuy tăng cao nhưng tiên lương bệnh lại rất tốt, tỷ lệ sống sau 5 năm chiếm trên 98,1% và tỷ lệ tử vong gần như không thay đổi.

Nhờ có những tiến bộ trong phương pháp phẫu thuật và điều trị i-ốt phóng xạ (I131), xạ trị (xạ trị điều biến liều) đã mang lại những hiệu quả rất tốt với ung thư

Ung thư tuyến giáp được chia làm 4 thể bệnh chính trong đó hay gặp nhất là ung thư tuyến giáp biệt hóa chiếm 85-90% (gồm ung thư tuyến giáp thể nhú và ung thư tuyến giáp thể nang).

tuyến giáp.

Các yếu tố nguy cơ ung thư tuyến giáp

Ung thư tuyến giáp chiếm 1% trong các bệnh lý ung thư nói chung nhưng lại là bệnh phổ biến nhất trong các bệnh lý ung thư của hệ tuyến nội tiết. Bệnh hay gặp ở nữ giới và phần lớn chưa tìm được nguyên nhân.

Các yếu tố môi trường và biến đổi gen giải thích về sự khác biệt các thể bệnh ung thư tuyến giáp. Yếu tố nguy cơ là bất cứ yếu tố nào ảnh hưởng đến khả năng sinh bệnh tật, trong đó có ung thư tuyến giáp.

Một số yếu tố nguy cơ như thuốc lá, uống rượu, béo phì... có thể tác động để thay đổi tình trạng bệnh tật nhưng cũng có những yếu tố khác như yếu tố gia đình, di truyền lại chưa can thiệp được.

1. Các yếu tố nguy cơ có thể có thể thay đổi được

- Do chế độ ăn i-ốt

Ung thư tuyến giáp xuất phát từ các tế bào biểu mô nang tuyến giáp có chức năng hấp thu i-ốt để tổng hợp hormone tuyến giáp. Chế độ ăn thiếu i-ốt có thể tăng nguy cơ ung thư tuyến giáp thể nhú nếu người đó phơi nhiễm phóng xạ.

Chế độ ăn thiếu i-ốt được cho là gây ra ung thư thể nang và thể không biệt hóa trong khi chế độ ăn thừa i-ốt liên quan đến đột biến gen BRAF V600E với ung thư thể nhú.

Các yếu tố nguy cơ gây ung thư tuyến giáp cần lưu ý -0
Nhiều nguyên nhân như môi trường nhiễm xạ, biến đổi gen và do đặc tính di truyền gây ra ung thư tuyến giáp

- Do phơi nhiễm phóng xạ

Các nguồn chiếu xạ ở những bệnh nhân có tiền sử nhận liều xạ trị cho các ung thư khác hay bị nhiễm xạ trong các vụ nổ y học hạt nhân đã được chứng minh liên quan đến ung thư tuyến giáp. Nguy cơ ung thư tùy thuộc vào liều chiếu xạ và tuổi bệnh nhân: tuổi càng trẻ và liều điều trị càng lớn, nguy cơ mắc càng cao.

Mặc dù liều chụp tia XQ thấp nhưng đối với những trẻ mới sinh ở những khoa điều trị tích cực có tình trạng phơi nhiễm xạ ở tuyến giáp cao hơn ở những đứa trẻ đang điều trị ở các khoa khác tới 95% khi chụp XQ phổi và 45% chụp X-quang bụng.

- Do béo phì, thừa cân

Theo Cơ quan quốc tế về nghiên cứu ung thư cho biết, những người có cân nặng béo phì hay thừa cân có yếu tố nguy cơ cao phát triển ung thư tuyến giáp hơn những người khác. Nguy cơ xuất hiện càng tăng khi chỉ số cơ thể BMI tăng.

2. Các yếu tố nguy cơ không thay đổi được

- Do tuổi và giới tính

Theo các nghiên cứu ung thư tuyến giáp gặp ở nữ cao gấp 3 lần nam giới. Có giả thuyết cho rằng, ung thư tuyến giáp liên quan đến các receptor tiếp nhận estrogen ở nữ giới. Nhưng trong nghiên cứu của Navarro Silvera gần 90.000 phụ nữ cho thấy hormone ít có mối liên quan đến ung thư tuyến giáp. Hơn nữa, nghiên cứu này chỉ ra rằng những phụ nữ sinh đẻ nhiều hơn 5 lần ít nguy cơ mắc ung thư tuyến giáp hơn so với những phụ nữ sinh ít số con hơn.

Ung thư tuyến giáp có thể gặp ở nhiều lứa tuổi nhưng những phụ nữ sinh con trên 35 tuổi có nguy cơ mắc ung thư tuyến giáp cao gấp 2,8 lần nhóm phụ nữ sinh con dưới 20 tuổi.

- Tình trạng di truyền

Phần lớn bệnh ung thư tuyến giáp không có tiền sử di truyền hay tiền sử gia đình. Trường hợp ung thư tuyến giáp thể tủy bắt nguồn từ các tế bào C của tuyến giáp có khoảng 25% trường hợp liên quan đến yếu tố gia đình: Gồm có trường hợp ung thư tuyến giáp thể tủy có tính chất gia đình đơn thuần và ung thư tuyến giáp thể tủy là một phần của hội chứng đa u thần kinh nội tiết MEN type 2A và MEN type 2B.

Trường hợp ung thư tuyến giáp thể nhú hoặc nang xuất phát từ tế bào biểu mô nang tuyến giáp cũng có thể di truyền. Ung thư tuyến giáp có tính chất gia đình xuất phát từ các tế bào biểu mô nang tuyến giáp gồm hội chứng đa polyp, hội chứng Cowden, hội chứng Werner, Carney và Pendred...

Hầu hết ung thư tuyến giáp có tính chất gia đình được mô tả tiến triển hơn những trường hợp ung thư tuyến giáp cá thể, hay gặp di căn hạch, xâm lấn ngoài tuyến giáp và tuổi mắc bệnh trẻ hơn.

Có thể phòng ngừa ung thư tuyến giáp như thế nào?

Hầu hết ung thư tuyến giáp không biết nguyên nhân nên khó có thể phòng ngừa ở hầu hết các trường hợp. Tuy nhiên, cần lưu ý phơi nhiễm phóng xạ là yếu tố nguy cơ gây ung thư tuyến giáp, đặc biệt ở trẻ em. Do đó, chỉ định chụp X-quang, CT chỉ thực dự cần thiết và cân nhắc liều chụp cũng như liều điều trị và thời gian điều trị xạ trị trong các bệnh lý ung thư.

Lưu ý có chế độ ăn i-ốt phù hợp, lối sống lành mạnh, luyện tập thể thao phòng tránh thừa cân, béo phì.

Xét nghiệm đột biến gen đối với những trường hợp ung thư tuyến giáp thể tủy có tính chất gia đình có thể ngăn ngừa và điều trị sớm ung thư phẫu thuật cắt tuyến giáp toàn bộ. Bệnh nhân cần được xét nghiệm gen bằng kỹ thuật giải trình tự thế hệ và tư vấn di truyền cho người thân.

Tuyến giáp là một tuyến nội tiết lớn nhất cơ thể, có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển cơ thể và chuyển hóa năng lượng. Khi các tế bào biểu mô tuyến giáp biến đổi do nhiều nguyên nhân như môi trường nhiễm xạ, biến đổi gen và do đặc tính di truyền gây ra ung thư tuyến giáp.

TS. Ngô Thị Minh Hạnh (Báo SK&ĐS)
#