Giải pháp tổng thể cho “bài toán” xử lý chất thải rắn sinh hoạt
Sau 5 năm thực thi Luật Bảo vệ môi trường 2020, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt ngày càng tăng và đẩy mạnh áp dụng công nghệ hiện đại giảm chôn lấp, tăng tái chế và thu hồi năng lượng. Song, công tác quản lý vẫn tồn tại không ít khó khăn, bất cập cần sớm giải quyết.
Tăng tỷ lệ thu gom, xử lý
Chia sẻ tại Tọa đàm Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 23/9, Ủy viên là ĐBQH hoạt động chuyên trách tại Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn cho biết, chất thải rắn sinh hoạt liên quan trực tiếp đến sức khỏe người dân, phát triển kinh tế và mục tiêu xây dựng nền kinh tế tuần hoàn.
.jpg)
Ghi nhận và đánh giá cao việc triển khai thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và những kết quả đạt được, ĐBQH, PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn cho biết, khung thể chế đã từng bước hoàn thiện. Sau khi luật được ban hành, các bộ, ngành, địa phương đã có những hướng dẫn cụ thể.
Tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải rắn đã vượt các mục tiêu. Nhìn nhận ở kết quả đạt được, chúng ta đã làm rất tốt, nhiều địa phương đã tập trung đầu tư công nghệ và xử lý hiện đại. Việc ứng dụng công nghệ trong tái chế, đốt rác, phát điện nhằm giảm tỷ lệ ô nhiễm nguồn nước cũng được quan tâm.
Về nâng cấp hạ tầng thu gom, vận chuyển, nếu như trước đây xe vận chuyển là loại cũ, hở thì giờ chúng ta đã dùng loại xe kín, tỷ lệ ô nhiễm môi trường từ xe rác được hạn chế tối đa.
“Đó là những kết quả rất tích cực sau khi triển khai Luật Bảo vệ môi trường và tới nay, chúng ta đã tiếp cận dần với kinh tế tuần hoàn. Đây là điều tôi đánh giá rất cao. Chúng ta đã xác định rác là tài nguyên, thì những kết quả này chính là nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và hướng tới mục tiêu tốt” - ĐBQH, PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn nhấn mạnh.
.jpg)
Nhất quán từ chính sách tới tổ chức thực hiện
Bên cạnh những điểm đã đạt được, theo ĐBQH, PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn, cần nhìn thẳng vào thách thức thực tế. Cử tri đang rất quan ngại với vấn đề ô nhiễm môi trường, đặc biệt là vấn đề xử lý thế nào, quản lý chất thải rắn sinh hoạt ra sao với những biện pháp tổng thể.
ĐBQH, PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn chia sẻ dưới góc nhìn khi trực tiếp tham gia Đoàn giám sát tối cao của Quốc hội về vấn đề này là phải nhìn thẳng vào những nguyên nhân dẫn đến việc chưa thực hiện được, chưa có một giải pháp tổng thể trong quá trình quản lý chất thải rắn sinh hoạt.
.jpg)
Đó là bất cập từ chính sách pháp luật. Đơn cử như hiện nay về phí, giá dịch vụ, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định tính phí thu gom dựa trên khối lượng và thể tích sau phân loại. Thế nhưng thực tế có nhiều địa phương chưa làm, vẫn theo cách khoán các hộ gia đình cố định.
ĐBQH, PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn cho rằng, phí giá phải quán triệt trả theo lượng một cách thực chất. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới chậm điều chỉnh, chưa tạo động lực giảm tải rác thải và nếu tiếp tục áp dụng như cũ sẽ rất khó khăn.
Hai là chuẩn hóa phân loại tại nguồn còn thiếu. Hiện nay Nghị định 08 đã đặt yêu cầu phân loại, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã có hướng dẫn kỹ thuật, nhưng đã có bộ tiêu chuẩn về bao bì, về màu sắc để nhận diện thống nhất toàn quốc hay chưa là vấn đề cần bàn đến.
Vấn đề nữa là về định mức, đơn giá và đặc biệt là phương pháp đặt hàng đấu thầu dịch vụ công ích chưa đồng bộ. Lý do tại sao chưa chưa áp dụng được định mức, đơn giá là câu chuyện tiếp theo cần phải bàn.
Một điểm quan trọng nữa là cơ chế EPR - cơ chế mà trách nhiệm mở rộng của các nhà sản xuất với bao bì sản phẩm, từ khi sản xuất đến lưu thông, tới khi tiêu thụ cho toàn bộ vòng đời của sản phẩm, kể cả từ giai đoạn sau khi trở thành chất thải. Hiện nay, vấn đề này còn rất hạn chế, nhận thức của nhiều người làm về môi trường vẫn chưa đánh giá rõ cơ chế EPR này. Đây là một trong những nguyên nhân cần phải xem xét.
Trong tổ chức thực hiện, một trong những nội dung được rất nhiều cử tri đặt câu hỏi là về quy định, nguyên tắc phân loại tại nguồn đã đáp ứng được yêu cầu chưa. Không ít nơi thí điểm phân loại nhưng hệ thống thu gom, trung chuyển, xử lý chưa tách được, gọi là chưa tách dòng. Nhiều khi xe tới nơi đã phân loại từ 4, 5 nguồn nhưng lên xe thì trộn vào một, thậm chí kể cả xe có phân loại nhưng tới giai đoạn xử lý thì lại trộn vào.
Vấn đề nữa là độ phủ kín dịch vụ ở nông thôn còn thấp. Hiện nay, còn rất nhiều bãi chôn đốt rác thải y tế được tập hợp từ các thành phố nhưng "đẩy" về các vùng nông thôn và chưa xử lý được. Nhiều bãi chôn lấp lộ thiên, không có quy trình.
Bất cập nữa trong tổ chức thực hiện là giá. Đơn giá chưa phản ánh chi phí đầy đủ. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhà đầu tư không mặn mà đầu tư vào xử lý rác thải. Bên cạnh đó, dữ liệu của báo cáo cũng chưa nhất quán. Thông tư 02 đã có mẫu biểu dữ liệu nhưng thực thi rất hình thức và hệ thống số hóa thời gian thực về khối lượng, về tỉ lệ phân loại lộ trình xe, hiệu suất từ cơ sở khó khăn, khó có cơ sở dữ liệu chuẩn xác để dựa vào đấy đánh giá tồn tại, bất cập.
Cuối cùng trong nguyên nhân về bất cập trong tập trung tổ chức thực hiện là chuỗi tái chế ngoài rất lớn, khó kiểm soát. Nếu không làm tốt phối hợp liên ngành thì quá trình xử lý rác thải sinh hoạt sẽ cực kỳ khó khăn và phức tạp. Phải xác định nguyên tắc thì trách nhiệm của các cơ quan mới rõ, mới làm được triệt để và đáp ứng đúng mục tiêu, giải pháp tổng thể về quản lý chất chất thải rắn trong thời gian tới.
Sau khi Quốc hội thông qua chuyên đề giám sát và có nghị quyết, trên cơ sở đó Chính phủ sẽ sửa Luật Bảo vệ môi trường đúng tinh thần Quốc hội đặt ra...