Đất học Hương Ngải
Kẻ Ngái, tên chữ là Hương Ngải, người ta hay gọi nôm na là làng Ngái, xưa thuộc xã Hương Ngải, Thạch Thất, trấn Sơn Tây, nay là Thạch Thất, Hà Nội - Một làng thuần nông, nghèo khó, nhưng nhờ có truyền thống học hành, Hương Ngải đã trở thành đất học nổi tiếng.
“Ôi, thờ cúng và khắc bia các vị hương hiền không dám chỉ vì các vị đó, mà muốn mong con cháu sau này nối tiếp truyền thống vẻ vang của các cụ mà thôi. Thảng hoặc sau này, nếu ai có chí qua đây chiêm ngưỡng mà thấy hứng khởi, đó là điều mong muốn của cả làng ta vậy…”. Trích văn bia của làng |
Làng gồm 4 thôn là Nậu Thượng, Nậu Trong, Nậu Hạ và Nậu Tư. Hương Ngải ở cách xa các thị trấn, thị tứ, đất ruộng ít. Làng cũng không có nghề phụ, nên không ai giàu có. Tuy nghèo của cải, nhưng từ lâu đời người Hương Ngải đã có truyền thống vươn lên nhờ học hành, trở thành đất học có tiếng. Qua ghi chép của một số thư tịch cổ, làng có 4 người đỗ đại khoa là Đỗ Hịch, Phí Nhạc, Đỗ Thê và Nguyễn Đăng Huân. Đỗ Hịch là Tiến sỹ khoa Quý Sửu 1493, niên hiệu Hồng Đức 24 đời Lê Thánh Tông. Ông làm quan trải các chức Tổng binh, Đồng tri, rồi Thượng thư. Khi làm quan, Đỗ Hịch có nhiều công lao giúp nước nên được vua Lê tặng bốn chữ Oanh liệt tướng quân. Ông về trí sỹ, thọ 79 tuổi. Người đỗ đại khoa tiếp theo là Phí Nhạc, 22 tuổi, đỗ Hoàng giáp khoa Kỷ Sửu 1529, niên hiệu Minh Đức thứ 3 đời Mạc Đăng Dung. Ông làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình, tước Phúc thủy hầu. Tiếp nữa, thời Lê Trung Hưng, cháu bảy đời của Đỗ Hịch là Đỗ Thê, 23 tuổi đỗ Tiến sỹ khoa ấËt Sửu 1685, niên hiệu Chính Hòa thứ sáu đời Lê Hy Tông. Ông từng đi sứ nhà Thanh, làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Khi mất, ông được tặng Hộ khoa Đô cấp sự trung. Thời Nguyễn, Hương Ngải có Nguyễn Đăng Huân sinh năm 1805, đỗ Hoàng giáp khoa Kỷ Sửu 1829, niên hiệu Minh Mạng thứ 10, đã được bổ chức Tri phủ Điện Bàn, Quảng Nam. Sau, ông được điều về kinh, thăng chức Lang trung bộ Lễ. Ông mất sớm, khi mới 34 tuổi, dân chúng Điện Bàn yêu kính ông đã đặt bài vị tống tiễn ông ở Văn từ bản phủ. Theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán Nguyễn Đăng Huân được Nhà vua ban tặng 8 chữ thờ ở nhà: Thanh bạch tự trì, thế tư liêm lại (giữ được sự thanh bạch nên người đời nhớ mãi vị quan liêm khiết).
Truyền thống hiếu học của Hương Ngải còn thể hiện ở việc từ xưa làng đã có ruộng học điền để khuyến khích người làng đi học, nhất là giúp đỡ những nhà gặp cảnh ngộ khó khăn. Làng còn cho lập một Nghênh quán ở đầu làng, nơi có 7 cây đa cổ thụ ứng với 7 ngôi sao trong chòm sao Bắc đẩu. Người nào thi đỗ Cử nhân trở lên sẽ được làng đón ở Nghênh quán, và coi đó là hiền tài của Hương Ngải, mà tài năng, đức độ tỏa sáng như sao Bắc đẩu. Thêm nữa, Miếu thờ tam vị Thần hoàng làng đặt ở chỗ cao quý nhất trong nhà tiền tế để những già làng thọ trăm tuổi trở lên và người đỗ đại khoa ngồi khi tế lễ. Đó là một cái đích để các sỹ tử Hương Ngải phấn đấu học hành và các cụ trong làng gắng luyện rèn sức khỏe để sống lâu. Trong hậu cung của Miếu thờ còn lưu giữ bức đại tự lớn do vua Tự Đức ban tặng năm 1874 với 4 chữ Mỹ tục khả phong. Xưa kia, phải là làng có phép tắc lễ nghĩa, dân chúng đùm bọc thương yêu nhau thật sự và học vấn thấm sâu vào các cửa họ trong làng mới tạo nên một nếp sống xứng đáng với Mỹ tục khả phong, như Hương Ngải.
Sang thời cận hiện đại, làng có một tài năng nổi trội là nhà văn Nguyễn Tử Siêu (1887-1965). Ông vừa làm thuốc cứu người, soạn sách thuốc, vừa viết tiểu thuyết, được đánh giá là nhà văn viết nhiều tiểu thuyết nhất những năm hai mươi của thế kỷ XX. Tên tuổi của ông được ghi vào sách Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam, do NXB Khoa học xã hội xuất bản năm 1992. Những tác phẩm chính của ông như các tiểu thuyết tâm lý xã hội: Đỉnh núi cành mai, Cái nạn văn chương, Bạn đời xưa… và các tiểu thuyết lịch sử: Vua Bố Cái, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Việt Thanh chiến sử, Hai Bà đánh giặc, Vua bà Triệu ấu... Nhiều tiểu thuyết của ông khi ra đời đã ảnh hưởng tích cực đến phong trào yêu nước, nên đã bị chính quyền thực dân cấm lưu hành…
Ngày nay, truyền thống hiếu học của làng Hương Ngải vẫn được phát huy. Theo thống kê, từ ngày hòa bình lập lại năm 1955 đến cuối thế kỷ XX, làng có hơn 300 người đỗ đại học và 20 người trở thành Tiến sỹ. Hơn 50 người làng Hương Ngải bằng con đường học hành, đỗ đạt mà tạo lập cuộc sống ở nhiều nước trên thế giới. Nhờ con đường học tập, nhiều người quê Hương Ngải đã trở thành những nhà khoa học, tướng lĩnh và những nhà quản lý trong các ngành nghề khác nhau.