Đào nguyên (Phần cuối)
Truyện của Trần Chiến

01/09/2011 07:09

>> Đào nguyên (Phần 1)

>> Đào nguyên (Phần 2)

>> Đào nguyên (Phần 3)

Đào nguyên (Phần cuối)<br><i>Truyện của Trần Chiến</i> ảnh 1
Minh họa của Thuý Hằng

Đang riu riu trên sạp nứa thì có tiếng bước chân bên ngoài. Ngọn đèn bão chập chờn một cô Thim cứng cáp, tóc xơ và thưa, quần ống xắn ống không, nách áo sẫm cả mảng.

- Mai các thủ trưởng đi hè.

Thim dựa khẩu súng vào vách, ngồi xuống sạp, tỏa ra mùi chua chua ngầy ngậy làm Tĩnh choáng váng.

- Ừ. Đời lính nay đó mai đây… - Nhận thấy mình đang mềm yếu, Tĩnh cố tự chủ, chuyển sang những câu cần thiết phải nói trong tình huống này, tuy anh đã nói ban chiều - Trong những ngày qua đoàn đã được trung đội dân quân các o giúp đỡ rất nhiều. Không có thì không biết xoay xở ra sao nữa. Nói cảm ơn thì không đủ, chúng tôi rất nhớ, và sẽ báo cáo cấp trên để biểu dương khen thưởng trung đội o Thim.

- Nhiệm vụ mà thủ trưởng, chúng em chỉ biết hết sức mình. Có gì khuyết điểm mong đoàn thông cảm.

- Có gì mà phải thông cảm, Tĩnh ngạc nhiên. O nói làm tôi áy náy…

- Thì là cái việc hôm đầu o nớ giăng mắc với anh bộ đội, rồi bệnh lây cười, chị em có lúc không làm chủ được mình trong quan hệ. Thôi, thủ trưởng đi ngủ lấy sức mai hành quân.

Thim đã với cây súng, thì bất ngờ cái mùi kia lại quất vào óc Tĩnh, đòn mạnh chí tử. Anh chồm dậy kéo cô đổ xuống. Họ vật nhau trong căn hầm chật chội, dúi mũi vào nách áo đẫm mồ hôi, mồm chun lên ngột ngạt, tay gạt tay, chân lùi dúi dụi, nhưng tịnh không kêu. Rồi cuộc đề kháng tắt ngấm, mặc cho đôi tay đàn ông lục lọi. Không thể dìu dặt, Tĩnh phủ lên cô những cuống cuồng nóng giẫy. Tội nghiệp anh lính chiến, sức vóc bao nhiêu đã dốc cả cho những ngày qua. Giữa bóng tối đen kịt chợt bật lên tiếng khúc khích, người này lan sang người kia, làm đêm man dại loãng đi một chút.

- Thủ trưởng đi hè!

Trong những tia sáng đầu tiên của ngày rọi qua cửa hầm, Thim đứng vấn lại tóc, tay ve vẩy cái chun, những bộ điệu thật đàn bà. Cô trung đội trưởng khắc khổ gương mẫu vụt biến mất, chỉ còn tấm thân cao, thẳng như dóng tre bánh tẻ đang khoác lại khẩu súng. Từ đôi mắt sâu chảy tràn xuống dòng ánh sáng chan chứa phả phê. Cái hình ảnh ấy, của hạnh phúc, Tĩnh biết mình sẽ đem theo xuống dưới mồ.

Chuyến vô trong rất không may mắn. Dọc đường, y tá, nuôi quân, trợ lý tác chiến lần lượt nằm xuống. Không có dân, bộ đội địa phương yểm trợ, với sự lì lợm chưa từng thấy, những người còn lại vẫn nắm được bố phòng của căn cứ K.

Trở ra hậu phương chỉ còn Tĩnh và trợ lý bản đồ, cùng những tài liệu trả bằng xương máu.

Nhưng K. cũng không tồn tại. Còn thế nào được, khi bộ tổng tập trung một lực lượng lớn cả quân số lẫn hỏa lực quyết tâm nhổ. Địch bất ngờ, các căn cứ xung quanh muốn ứng cứu nhưng sợ mình cũng mất luôn. Con đường ta mở từ Thanh Hạ ngoằn ngoèo, thắt như ruột gà ngày cũng như đêm rung bần bật nhưng dai nhách, thông được vào một vùng rộng lớn có dân và những cơ sở cũ. Chiến dịch thắng lợi, trung tá Tĩnh về một cơ quan tham mưu cấp cao hơn, nơi anh lĩnh những nhiệm vụ gian nan chẳng kém, cùng những cơ hội được vua biết mặt chúa biết tên.

Chiến tranh lớn kết thúc rồi đến vài chiến tranh nhỏ, rồi công cuộc xây dựng. Là người lính thật sự, Tĩnh húc hết, từ kiểm tra tuyến phòng thủ đến làm đường chiến lược cho kinh tế vừa cho quốc phòng, luôn luôn ở các vùng biên giới. Từ đó đến vị trí bây giờ thì cứ tằng tằng mà tiến, không phải lanh lợi thăm thú kết giao nhiều quá. Đơn giản là Tĩnh có cái người ta cần, và công lao, thứ mà ông luôn biết có xương máu những người đã cùng đi với mình góp vào. Hòa bình về, vài lần công tác, ông ghé vào Thanh Hạ, tìm không thể ra khu rừng ngày ấy. Kể lại, thì người ta bảo các o dân quân lừa anh, làm gì có cây nào là nhọ nhẹ. Trí nhớ bội bạc, và mình cũng bội bạc như sự bội bạc của cậu trợ lý bản đồ - không còn giữ được tấm bản đồ đánh dấu những cao điểm xưa.

Giữa những săn đón chăm sóc thủ trưởng trung ương về thăm lại chiến trường xưa của cán bộ Thanh Hạ, ông có những ngơ ngẩn xuất thần, uống nhiều và mệt cũng rất nhanh. Quay lại với kỷ niệm là cái đoạn con người ta oải, muốn nghỉ rồi. Năm sau. Không, vài tháng nữa thôi, nhiệm kỳ của ông kết thúc. Tổ chức đã nhắm người khác, và ông cũng muốn buông. Buông là phải, những quan hệ dân sự làm anh đàn ông cả đời làm lính chóng mặt rất nhanh. Giai đoạn “hạ cánh” có chức năng chuyển giao là chính, nên ông có nhiều thì giờ. Tĩnh không thích viết hồi ký, thấy những người ấy hay “nhớ lại những điều chưa từng xảy ra”. Ông cũng đã quên nhiều quá. Giờ là lúc sống lại. Nhưng ký ức lại tàn nhẫn xóa đi nhiều quá, chẳng hạn ông không thể nhớ mình đã ra khỏi chiến tranh như thế nào, cảm giác đầu tiên về thành phố miền Nam đầu tiên mình tiến vào…

Lại có những câu hết sức vớ vỉn như cách bọn thanh niên con ông nói bây giờ, thì gột thế nào cũng không đi. Trong một thị xã bị tàn phá, bà cụ nhai trầu bỏm bẻm ngắm ông bảo “Chú này có chữ “Thọ” sau lưng. Rồi sẽ lên rất to”.

Và Tuấn, cậu trung úy nhỏ nhắn rắn đanh. Ngày rời khỏi căn hầm “với Thim”, Tĩnh đã hành quân theo cái cách không ngửi được, luôn tụt lại dù mang nhẹ nhất. Nheo nheo cặp mắt soi mói, Tuấn tưng tửng “Đầu gối thủ trưởng có vấn đề rồi…” Đúng là dân trinh sát. Kệ mẹ mày, tao đang ngất ngây con gà tây đây, Tĩnh cười trong veo, đủng đỉnh đi. Hết chiến tranh ông về nhà Tuấn, không kể chuyện con của mẹ đã lĩnh nguyên một quả mìn trong hàng rào ở K.

***

Việc nặng tình với ký ức phả phê dưới hầm giục Tĩnh chiều nguyện vọng của Thanh Hạ. Bao năm nay, giữa những lý giải rõ rành được về chiến tranh, binh nghiệp, cuộc sống thời bình, ông phải dừng bước trước bao câu hỏi khác, dù nhỏ nhoi thôi nhưng bao nhiêu là bí mật.

Như về Tuấn, đã mất mà còn làm Tĩnh không thôi ngạc nhiên vì lòng yêu đời không bao giờ cạn. Những câu chuyện đực cái kể giữa hai trận bom, những phát hiện về em ấy em nọ hé mở cho ông một nguồn mạch khác, khiến khi nghĩ về nó, ông thấy mát lành, đỡ đi những áy náy trong công việc, quan hệ trên dưới. Như về các o dân quân cười không thể dừng. Bệnh điên tình dễ lây.

Và tất nhiên, về Thim, sao lúc đó bỗng đẹp rực rỡ. Cả ông nữa, mắt mũi tay chân, tất cả các bộ phận cơ thể của ông đều nói khi hòa vào cô, nhưng cả hai đều không ra một lời nào, là làm sao? Bao năm nay ông tự hỏi nếu mở mồm thì sẽ là câu gì, đều không ra. Có người vợ đẹp đẽ, trí thức và đàn bà đều đến nơi, ông chưa từng khao khát một ai khác, nhưng đã không thể quên những ấm nóng dúi dụi dưới căn hầm xưa. Không ít lần, giữa những lớn lao tót vời, ông tưởng mình bắt lại được cái mùi chua chua ngầy ngậy nọ, rồi buồn rầu thấy nó lẩn mất. Đúng ra thì là ông không bắt lại được nó.

Tác động lớn từ Tĩnh, cơ quan duyệt cấp bằng di tích chiến tranh cách mạng nhanh chóng làm việc với huyện Thanh Hạ. Dù chưa thuyết phục lắm, sau vài lần bổ sung gọi là, hồ sơ xếp hạng được thông qua với chữ ký của thứ trưởng phụ trách di sản. Rắc rối cũng có, như khi người trợ lý bản đồ cũ hỏi Tĩnh sao lại lấy thôn Ba thị trấn huyện làm điểm khởi đầu cho chiến dịch đánh K.? “Thì nó bắt đầu cho giai đoạn đánh lớn. Còn những nơi người đi trước bắt đầu cuộc gùi thồ vũ khí vào trong ta cũng không quên, nhưng địa phương lại chưa đề đạt”, Tĩnh giải thích. Vài ba tờ báo đăng thắc mắc về điểm khởi đầu chưa thuyết phục, sau vài nhắc nhở nội bộ liền tạnh. “Lịch sử phải luôn luôn được viết lại”, kinh điển nói thế cơ mà, ta cứ “viết đi” cái đã.

Một tượng đài hoành tráng dựng lên giữa thị trấn Thanh Hạ, nơi mấy con đường cắt nhau, đắp nổi nữ dân quân vác đạn, lính tráng các binh chủng, cả tên lửa, xe tăng, pháo phòng không. K. là chiến dịch hiệp đồng binh chủng, mở thông huyết mạch vào một vùng rộng lớn sau lưng địch kia mà. Bên cạnh là nhà lưu niệm, tất nhiên phải có xẻng cuốc đào hầm, mũ sắt, dù pháo sáng, nhưng con người thì không được cụ thể mấy. Lèo tèo vài tấm ảnh, loại tìm được ở bất cứ bảo tàng nào. “Huyện nghĩ đến việc xin công nhận di tích khi chiến tranh qua đã lâu, những nhân chứng vật chứng, rất tiếc là không còn tìm được”, bí thư Thanh Hạ áy náy nhận trong lễ khánh thành di tích.

Hôm ấy cả nhà Thông có mặt. Về quê trong ngày vui, để cho thằng Tùng biết thế nào là quá khứ vinh quang, dĩ nhiên. Và vì lời biểu dương của ông Thọ: “May là họ ta có cô dâu Thắm lắm quan hệ”. Ngày ông Thọ với ông Mật ra dầm dề ngoài Hà Nội, hết họp đồng hương quán triệt tới tong tả chạy cửa này công đường nọ mà không ăn thua, đã nản lắm. Đến lúc chán chả buồn nói thì Thắm “đánh rơi” mối liên hệ đến thư ký ông Tĩnh. Ở nhà thì tằng tằng nhì nhằng tròn vai, nhưng đến cơ quan, Thắm là một đấng siêu thủ trưởng, tết nhất thay mặt sếp đem quà đi biếu đủ các cửa. Đang tuyệt vọng mà lại vớ được cái cọc, trúng phóc. Đâm ra sang vì vợ, Thông nghĩ mình có nhẽ phải đi xem tử vi có thân cư thê không.

Buổi lễ diễn ra như thường thấy. Diễn văn tưởng niệm của bí thư nhấn mạnh Thanh Hạ có thế mạnh về chính trị, sẽ đi lên từ truyền thống của quá khứ vẻ vang, hy vọng các đoàn du lịch lấy cụm di tích làm điểm nhấn, mang lại công ăn việc làm và nguồn thu cho huyện. Các o áo dài bưng khay đựng kéo cho quan chức cắt băng khánh thành. Máy ảnh máy thu hình điều như chong chóng. Trong số đại biểu các ban ngành trung ương, tỉnh cùng về, tiếc rằng không có người có công kiến tạo tương lai tươi sáng ấy. Tĩnh gửi thư ký mang lẵng hoa về chúc mừng. Rất bận, hẳn thế. Và vì cả cái hội chứng chiến tranh chẳng giống ai của ông.

***

Nhà Thông rồi tất tả về Bùm. Ngày tốt khai trương di tích cũng là ngày khánh thành đình thôn. Nhỏ nhắn, không hoành tráng nhưng tử tế, từ xa, nó đã đem lại cảm giác quen thuộc, với bộ mái xà xuống thấp, những bức tường xây gạch già để mộc. Cây đa còn non bắt đầu xõa xượi bộ râu, hứa hẹn một sức sống khỏe khoắn. Bên trong thờ Phật, Thánh Mẫu, riêng ban giữa, bài vị trên ngai còn chưa viết gì. “Còn phải cử lại Thành hoàng chú ạ. Đuổi đi rồi, nay vời lại không biết các vị còn về…”, ông Thọ trầm ngâm trước câu thắc mắc của Thông.

- Mà cũng không biết các vị tên tuổi công tích thế nào, vì bài vị xưa đốt tiệt. Thành thử ngay cả hô thần nhập tượng cũng không biết hô thế nào. Tượng Thành hoàng chưa có, ngôi Nghìn mắt nghìn tay cụ tôi giấu, tôi đào lại dưới búi tre ông Đà.

Ông Thọ nói thêm. Ông bận áo the khăn xếp mới, chân dận đôi dép lê tổ ong rung rúc, thằng Tùng bảo trông chả giống ai nhưng lại cứ thích đi theo.

Ngày trọng. Việc trọng. Các cụ khăn áo tề chỉnh, ăn nói can hệ, nhưng phải cố giấu vẻ rầu rĩ. “Cũng là vì trùng dịp khánh thành di tích trên huyện, các ban ngành đều tất tả trên ấy nên chả ai về”, lại là lời giải thích của ông Thọ. Nhưng Thông thấy chả sao. Đình là đình thôn, dân Bùm từ nay đã có chỗ đi về, chả phải họp hành bình bán nhau chỗ nhà văn hóa cộng đồng vừa lạnh vừa lạ thế nào. Rồi sẽ đào ao mắt rồng, trồng thêm gốc đại gốc đề, xây tường cho trẻ khỏi lùa trâu vào. Rồi sẽ vận động con cháu đi xa góp những cuốn thư, câu đối, bức hoành, cả tượng nữa… Bao giờ có lên có thể làm cả hai dãy tả hữu vu. Đấy là những việc phải lo, nhưng ngày rộng tháng dài, khắc tự thân khắc lo được. Làng nghèo, chịu vậy. Có điều nghèo quá thanh niên bỏ đi hết, người ở lại rất lo khi chết có được mấy mống đưa…

Bên gian thờ Phật, các vãi xếp bằng kể hạnh, bắt đầu ngượng ngập vì bao năm chả ề à, rồi dần có đà, lời lẽ sinh sôi ra. Thông ngạc nhiên thấy Thắm và cả thằng Tùng sà xuống chiếu các vãi, ngồi nghe không thôi nhưng thành kính, thỉnh thoảng xua ruồi bâu trên phẩm oản khoanh khoai. Anh đã và sẽ còn góp tiền về công đức cho ngôi đình ấm áp của mình, của dân Bùm mình. Và không bị Thắm kèo nhèo cho chỗ không đáng, hẳn thế.

Lễ hạ ngôi đình đơn sơ, thủ tục giản tiện bởi các cụ, tự làm lấy theo lối vô sư vô sách, đã quên tiệt những lề thói quan viên xưa, không có cả tượng để hô thần nhập vào. Nhưng ai nấy thành kính. Đều là ở chữ “Tâm” thôi.

- Sao không thấy bác Mật? Nãy trên huyện em cũng không thấy, tưởng đang ở làng…

Nghe Thông hỏi nhỏ lúc đợi cỗ, ông Thọ trầm ngâm rồi nhỏ nhẻ: “Là bệnh tư tưởng. Lúc nãy trên huyện chú có thấy rước tấm bằng di tích chỉ là bản phô tô thôi không? Ngày chạy được bằng, bác ấy khai quà cáp tốn kém, tổng chi ra bốn triệu, nhưng huyện chỉ thanh quyết toán có hai triệu rưỡi. Bác ấy tức mình chỉ đưa ra bản chụp thôi, còn bản chính còn giữ trong nhà. Mà tay bí thư cũng tệ, chạy xong xuôi rồi quyết bác ấy phải nghỉ hưu đúng tuổi”.

Ông Thọ hỏi: “Cũng không có trên huyện à?”, rồi lầm bầm: “Hội các cụ cũng vời ra việc làng đấy, nhà người không ra chả biết là vì sao. Tôi đoán bác ấy đang công tác, khăn xếp áo the không tiện, thôi thì lúc về hưu lại áo the khăn xếp vậy”.

Việc làng việc họ với lại việc huyện té ra là còn rất ngổn ngang. Nghèo kiệt, trống toang, ngơ ngác, và run rẩy khi bị hò đóng góp, nhưng dân gian lại có vẻ yêu ngôi đình, rộn rịp đi lại xúng xính thưa thốt. Thế còn với anh thị dân lúc nào cũng toan tính tất bật thì sao? Có lẽ nó sẽ níu giữ ta, cho chút tĩnh tâm giữa ồn ào tranh chưởi, sẽ làm vợ con ta muốn về, dù chỉ để chơi thôi. Những ý nghĩ làm Thông thấy chóng say hơn, và vì ngoài kia, ngoài trời, mưa lây phây làm lá với râu cây đa tơ thẫm lại.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Đào nguyên (Phần cuối)<br><i>Truyện của Trần Chiến</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO