Đào nguyên (Phần 1)
Truyện của Trần Chiến

29/08/2011 07:25

>> Đào nguyên (Phần 3)

>> Đào nguyên (Phần 2)

>> Đào nguyên (Phần cuối)

Ông Thọ với ông Mật ra dầm dề ở Hà Nội, hết họp đồng hương quán triệt tới tong tả chạy cửa này công đường nọ. Ông Thọ là trưởng chi kiêm trưởng họ, hồi trẻ công tác xã hét ra lửa, đi bộ đội về thì đổi nết sang âm lịch, thích ăn trầu thuốc và nghe các cụ kể tích xưa. Bí thư xã là ông Mật nói năng như đánh trống, rất hay dùng những từ chính trị hệ trọng. Họ ở lại nhà Thông, bàn nhau tìm cách xin công nhận di tích lịch sử cho huyện nhà.

***

Cuộc họp “sơ khởi”, “tiên phát” – như cách ông Mật gọi - đồng hương Thanh Hạ, ngoài Thông có ba người, tất nhiên đều đang đảm trách những vị trí danh vọng nhất ngoài Hà Nội. Thanh niên, dù đại gia nứt đố đổ vách gọi sau, vì “chúng nó ít máu quê hương”, cứ để cha mẹ điều động. Theo lời hẹn, họ đều sớm có mặt khiến ban tổ chức yên lòng. Đó là đại tá Bùi Thế Nhiệm, trước khi về hưu là phó chủ nhiệm chính trị binh đoàn X. Ở tuổi gần bát thập, khổ sở vì bệnh suyễn, ông nói ngay “đừng hút thuốc lào nhớ” và rất ít ra lời. Bài là giảng viên đại học, có tên trong chấp hành một hội nghề nghiệp gì đó. Và Phương, phóng viên văn hóa ở một tòa soạn, bài vở đã vài lần nhắc đến sông núi, truyền thống quê nhà.

Đào nguyên (Phần 1)<br><i>Truyện của Trần Chiến</i> ảnh 1
Minh họa của Thanh Huyền

Sau tuần trà nước, ông Thọ gửi mỗi người một túi lạc “gọi là quà quê”. Ông Mật thay mặt đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong Thanh Hạ cảm ơn sự giúp đỡ bấy lâu của những người con xa quê hương, rồi mở đầu. Ông nhắc đặc điểm huyện nghèo, “giê đê pê” tính ra thấp nhất tỉnh, đa phần xã ở diện một ba lăm, bao năm qua lãnh đạo tìm một hướng đi lên cho huyện, phải nói là rất bí. Kinh tế ngoài bốn “lờ” là lúa lợn lang luồng thì đủ ăn là may, chả trông vào đâu cả. “Nhân lực trước là một thế mạnh, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong tỉnh, nhưng mấy nhiệm kỳ vừa rồi đám Cù Khê, Ba Lạt cậy kinh tế khá lên ào ào, những quyết định, dự án quan trọng họ lôi về hết, mỗi lần họp tỉnh không khỏi tủi. Huyện quyết tâm đi lên bằng chính trị, cụ thể là xin cho bằng được cái di tích thời chiến tranh chống Mỹ hay chống Pháp đều được. Có thế mới tạo ra thế mạnh, người ta đi đâu về đâu đều ghé chỗ đấy ôn lại truyền thống, ta mở dịch vụ phúng viếng bên cạnh như ở các nghĩa trang liệt sĩ quốc gia, tuyên truyền mạnh mẽ trong nhân dân và thanh niên cả nước. Dần dần, Thanh Hạ khôi phục được vị thế trong tỉnh, động viên được nguồn lực đỡ bên ngoài…”

Ông Mật lục cặp lấy ra mấy tập giấy. “Đây là nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện mới thông qua, tôi đã gạch dưới những câu liên quan đến điều vừa truyền đạt tới bác và các anh”. Nhìn cách tiếp nhận nghị quyết của các đối tượng, Thông thấy ngay là hỏng rồi. Anh đảng viên ngoài phố khác ở huyện, càng khác anh trong lũy tre chứ. Mà không biết mấy ông này, trừ bác Nhiệm, có phải đảng viên cả… Nhưng lời kết luận của tuyên huấn đã vang lên:

- Như thế gọi là đi lên bằng nội lực. Các bác các anh người đã nghỉ người còn đương chức nhưng đều có sẵn các mối quan hệ và hiểu biết. Bát máu đào hơn ao nước lã. Huyện rất cần sự đóng góp của các bác các anh, bằng chất xám trước, chứ vật chất thì sau đã.

Ba vị khách đều im phắc. Ông Nhiệm và Bài còn liếc vào tập nghị quyết chứ Phương đã gạt phắt sang bên, hỏi ngay: “Thế huyện định xin lập di tích ở đâu?”

- Cũng chưa rõ lắm. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp, đâu đâu trong huyện cũng có đóng góp, hy sinh, làng nào mà chẳng vài mươi liệt sĩ.

- Chưa có địa điểm cụ thể thì khó lắm, Phương lúc lắc cặp kính tổ bố.

- Thật ra thì chọn ngã ba ở thị trấn huyện là tốt nhất. Chiến tranh, đấy là túi bom, đường hành quân vào Nam đi qua, địch nhất quyết đánh phá, ta nhất quyết thông đường, hy sinh nhiều vô kể, kể cả bắt được phi công Mỹ. Bây giờ chỗ ấy chụm vào thêm mấy con đường nữa, có cái kỷ niệm, tượng đài chẳng hạn, người ta dễ dừng lại thăm viếng.

- Người cũ còn ai không anh? – Phương lại hỏi.

- Tiếc là không. Ông Oánh huyện đội trưởng hồi ấy mất năm kìa, ông Chống xe thồ bà Yên hát Ví làm cọc tiêu sống đã đi cả. Còn độc cụ Diểu dân quân thì lẫn lộn. Tôi mới tìm hiểu đến đấy.

- Thế thì anh phải đi tìm thôi, lấy lại lời người sống sót. Mà nhanh lên kẻo các cụ đi cả.

- Rồi huyện sẽ làm, giọng ông Mật đã dịu lại. Nhưng trên này các anh biết ông nào đóng to mà trước kia chiến đấu ở đấy, hoặc chỉ dính dáng thôi…

Ba đối tượng chính nhìn nhau. “Nghĩa là chưa có gì để lập hồ sơ chứ gì? Thế thì lại phải đi tìm”, Phương lẩm bẩm. “Còn phải mất thời gian đấy. Tôi biết rõ chuyện chạy bằng di tích, chả phải nói suông, có sự thực sờ sờ mà được đâu”.

- Thế thì huyện mới cậy đến các bác các anh ngoài này. Chuyện tốn kém quà cáp trong ấy cũng liệu là phải có rồi. Nhưng bây giờ xin sang nội dung của xã ta. – Ông Mật chuyển sang ông Thọ - Chú trình bày đi.

“Luận văn” miệng của ông Thọ được soạn kỹ rồi, nhưng chuyện của cấp huyện to tát mà cũng nhiều vấn đề quá, nên ông quên mất. Nhãng một lúc nó mới xếp lại mạch lạc được, giọng quê rề rà như nói chỉ cho mình nghe, ý chân phác nhưng lại được khán thính giả chăm chú hơn.

- Bốn mươi năm thờ cúng đứt mạch, giờ mới thấy đuổi thần thánh đi là sai, thấy mình như cái cây trốc gốc. Hội hè làng nọ xã kia mở lại cả, các bà làng mình ngày rằm ngày một chả biết kể hạnh thắp hương ở đâu. Ngôi đình đã dựng lại còn đơn sơ quá. Cái bia năm “triệt để” đập mất, chả biết gốc tích ra làm sao. Làng nghèo, thôi thì trăm sự nhờ các bác các anh góp tay mở miệng vận động người họ người xã đi đâu đâu công đức cho bằng người. Cứ nghĩ đến hội bên làng Phủng vạn người nô nức mà tủi, mà thành hoàng bên ấy chỉ là anh nhặt cứt trâu, sao bằng Ngài nhà mình. Lời quê dông dài, thế cũng là nhiều đấy ạ…

Những lời rất nhũn nhặn mà chả ngờ lại làm ông giảng viên đại học bùng lên. Sự phản ứng dù được kiềm chế vẫn rất khó nghe:

- Tôi nói thế này không đúng chỗ, vì các bác không phải người gây ra. Nhưng hồi tôi có giấy gọi đại học, chính quyền xã ỉm đi không cho gia đình biết. Không có người lên Hà Nội dò danh sách gọi học có mình thì tôi giờ cũng là anh chân đất mắt toét đi theo đít trâu còn gì.

- Chuyện xưa rồi anh ơi…

Thông cất lời cản nhưng Bài lơ đi. “Mà tôi được gọi đi nước ngoài. Không được đi Tiệp hồi ấy trong diện viện trợ cắt lại cho lưu học sinh thì gia đình cũng chả nuôi được tôi học trong nước. Trần xì mỗi tháng mười tám đồng ăn học thế nào được. Giữ giấy gọi lại là ông anh của anh đấy”, Bài chỉ tay vào ông Thọ. “Hồi ấy chủ tịch xã quyền thế, yêu ghét ai là lấy tay che cả mặt trời được”.

Bài đứng phắt dậy đi nhanh ra cửa, rồi quay lại cũng nhanh như thế. Ừng ực hết cốc nước cho cơn giận xuôi xuống, vẫn đứng thế, ông lại xả:

- Tôi biết các bác không có lỗi, không liên quan trong chuyện này. Tôi cũng biết quê ta nghèo, muốn có danh cho thiên hạ tỏ mặt vua biết mặt chúa biết tên. Nhưng không nói không chịu được. Làng nghèo nhỏ bằng cái teo mà mang danh cách mạng ra đè nhau quá đáng quá. Đúng là giống kỳ mục kỳ nát có quyền là cậy quyền. Hồi nhỏ ở làng tôi khổ đến nỗi bây giờ ngửi thấy mùi khoai là buồn nôn. Không thoát ra được thì là khố dây chứ còn gì, mà giờ các bác lại bảo chúng tôi là những niềm tự hào của làng Bùm. Thôi tôi nói thế thôi, chứ cũng yêu quê hương chứ. Tôi sẽ góp tiền làm đình và gặp ai thì bảo họ làm giống mình…

Giọng đã dịu lại. Những lời đã ra làm đại biểu quê hương khấp khởi, thì Phương lại gây chuyện, có ôn tồn hơn.

- Hôm nọ tôi về nhà, ra ngắm qua đình mới rồi. Làm đúng nền cũ là phải, nhưng so với đình xưa thì trơ trẽn, trống trải quá. Tôi có kỷ niệm rất đau hồi chống mê tín dị đoan, xã buộc ba con trâu vào cột đình kéo đổ, bà cụ tôi ra can bị lão Phụng bí thư hét dân quân trói gô gốc duối. Cụ nhìn cảnh phá đình đau đớn phải ngất đi, tỉnh lại cứ nói sảng chết thôi chết thôi sao ác thế. Tiếc là những đứa phá đình không sống thì cũng thân tàn ma dại rồi, không tôi nhét cứt vào mồm nó. Thử hỏi cái trụ sở ủy ban, nhà văn hóa với nhà cộng đồng thôn, xây chả phải bằng tiền dân đấy, nhưng ai đi xa về gần có nhớ đến không? Chả báu lắm đấy. Người ta chỉ biết mái đình la xuống đầu đao véo lên, tiếng chuông chùa lan xa thôi. Thế mà tiệt mà đứt, giờ phải tính cất lại thì có ngu nào ngu bằng. Đang nhiên đem thằng mới về vứt tổ tông đi.

Ai nấy lặng ngắt. Ông Thọ mặt đuỗn ra, ông Mật xám như chì mẹ cha cái tụi thành phố nó chửi chúng mình dễ quá. May mà ông Nhiệm cất giọng, dù chậm rãi mà rành rọt, những điều ai cũng phải lắng nghe:

- Nếu kể tủi hờn ra thì tôi cũng góp được đấy. Năm ‘53 đang chính trị viên tiểu đoàn, về đến đầu làng gặp cụ Sức bảo anh quay đi ngay không đội cải cách bắt. Nhà tôi gieo mầm cách mạng đầu tiên, cuốn sử Đảng bộ xã ghi gì đâu, cứ phe giáp mình mà kể. Nhưng thôi. Lịch sử nào cũng có nhiệm vụ của mình, vì lẽ riêng mà chỉ nhớ đến điều dở thôi là không nên. Đánh giá, rút bài học này nọ là việc của trên và các ông chức năng, ta là những con người bình thường thì hãy quan tâm đến việc bình thường, như nguyện vọng của huyện hôm nay… Anh Phương vừa hỏi một chuyện rất thực tế. Điều tôi muốn hỏi anh Mật là một thực tế khác: thời buổi làm kinh tế, sao nghị quyết lại xác định đi lên bằng chính trị? Tính thế liệu có hợp không nhỉ…

Vừa giãn người ra vì câu ủng hộ, ông Mật phải co ngay lại. Cái điều, cái giọng của con người từng ở ngôi cao ấy làm ông phải so đo. Câu trả lời bật ra không ngờ lại rất nôm na.

- Nói thật với bác lâu nay Thanh Hạ ta lép về khoản cán bộ so với các nguồn khác trên tỉnh. Như các bác đều biết tỉnh ta có ba vùng miền núi, đồng bằng và duyên hải. Trong chiến tranh cơ quan tỉnh rút lên miền núi ta, sau này nguồn cán bộ cũng lấy từ đấy. Nhưng sang thời kinh tế thị trường thì bao nhiêu rường mối về tay đám đồng bằng với thị xã cả. Tổ chức, phó bí thư trực bên Hạ Câu, ngân hàng, bưu điện, hải quan béo bở không Cù Khê thì Ba Lạt, còn lại ta chỉ văn hóa xã hội èng èng mà lại dưới trướng phó chủ tịch người Vạn Hoa. Họ có ghế rồi đưa con cái, phe cánh về ùn ùn, chiếm hết chỗ ngon. Đại hội Đảng bộ tỉnh bầu khóa mới rồi bí thư huyện ta may mà vừa đủ phiếu vào tỉnh ủy, mà ông này người nơi khác, cử về một nhiệm kỳ làm nguồn lên chỗ mới thôi, còn những anh gốc Thanh Hạ bầu cho nhau thì được phiếu nào hay phiếu ấy. Tay lẻ khó vỗ là thế. Đi đại hội về chết giấc vì tức. Mà thời chiến những chỗ ấy ít bom đạn, hy sinh sao bằng Thanh Hạ ta. Có một di tích hoành tráng trong huyện để rồi trung ương, cả nước biết đến, ta không thể không lưu ý các vị mỗi khi đại hội phải bầu bán này nọ là đừng quên cái nơi đã chịu đựng cho cả tỉnh trong chiến tranh mà giành hết các vị trí về mình. Trả giá rồi thì phải đòi lại chứ, các anh huyện khác hưởng hết à? Đấy là cái điều không ghi vào nghị quyết được ạ.

- Ra là thế…

Người đáng kính nhất chỉ buông vậy, rồi ngả hẳn mình không nói năng gì nữa. Sự im lặng của ông nặng như núi ngàn cân đè chịt những người khác khiến chẳng ai mở mồm nổi.

***

Cuộc họp vãn, hai ông chủ trì đều nặng trĩu, chả biết kết quả là thành công hay thất bại. Đi thuyết phục đám đồng hương ra phố này không dễ chút nào, ông Mật cáu. Tức nhất là cái thằng Phương, tuổi kém mình bề bề mà nó cứ cật vấn ra điều phải lứa, dễ những lúc được hỏi ông bộ trưởng ông ủy viên cũng láo thế được chắc? Thằng Bài trí thức dạy đại học mà không biết nhẽ, sao cứ quàng vào chúng ông những chuyện người trước làm không phải. Nhưng anh ách nhất lại là ông Nhiệm, nói năng như không còn gì là người huyện người làng nữa, nghị quyết đã nêu mà cứ vặn. Mà lại đã qua quân ngũ, phải biết thế nào là sự lãnh đạo, ra trên dưới chứ.

Ra là đồng hương rồi nhưng đã mất gốc, không trông cậy được. Họp không đi đến đâu là do tuyển chọn nhân sự, những gương mặt mời đều do Thông nêu ra. Nhưng đang ở nhờ, ông Mật chỉ bảo “Lần sau không bảo mấy vị này nữa”. “Đây mới chỉ là dạo đầu bác ơi”, Thông cười hơ hớ. “Còn phải đi gặp gỡ, thuyết phục, trình bày, nhất là phải nghe, không nghe người ta không giúp đâu”. Càng ở lâu, ông Mật sẽ càng thấy Thông có lý. Nào ngờ được là khi đi thực hiện sứ mạng huyện giao, còn không ít lần, ông còn phải đối đầu với câu hỏi “sao lại chính trị đi trước?” ông Nhiệm đã nêu. Mà có phải lúc nào cũng thưa lại thật thà như lần này được đâu.

Bí, tức mà không trút đi đâu được. Lại sáng ra chả có con văn thư sai nó pha nước…

    Nổi bật
        Mới nhất
        Đào nguyên (Phần 1)<br><i>Truyện của Trần Chiến</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO