Công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt hiện vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức
Đến năm 2024, mỗi ngày cả nước phát sinh hơn 69 nghìn tấn rác thải sinh hoạt. Trong đó, lượng rác thải sinh hoạt ở khu vực đô thị chiếm hơn 53%, còn ở khu vực nông thôn chiếm gần 47%. Công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt hiện vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.
Đây là thông tin được chia sẻ tại Tọa đàm “Các giải pháp tổng thể quản lý chất thải rắn sinh hoạt” do báo Đại biểu Nhân dân tổ chức.

Phát biểu khai mạc tọa đàm, Tiến sĩ Lê Thanh Kim, Phó Tổng Biên tập Báo Đại biểu nhân dân, cho biết, chất thải rắn sinh hoạt là một trong những vấn đề môi trường nóng bỏng, liên quan trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, chất lượng cuộc sống, cũng như mục tiêu phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế tuần hoàn mà Đảng, Nhà nước đã đặt ra.
Thông tin từ các cuộc làm việc của Đoàn giám sát của Quốc hội với Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường thời gian qua cho thấy, sau 3 năm thực thi Luật Bảo vệ môi trường 2020, công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt đã đạt được những bước tiến quan trọng. Đây là những nỗ lực rất đáng ghi nhận, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của hệ thống chính trị trong việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Tuy nhiên, theo ông Lê Thanh Kim, công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt hiện vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Tỷ lệ chất thải rắn được xử lý bằng phương pháp chôn lấp trực tiếp vẫn còn cao, chiếm tới 62%.
Điều đáng nói là, nhiều bãi chôn lấp chưa đạt chuẩn, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm thứ cấp. Hoạt động phân loại rác tại nguồn mới dừng lại ở quy mô thí điểm tại một số địa phương, chưa được triển khai đồng bộ trên cả nước. Hạ tầng kỹ thuật, cơ chế tài chính, nguồn nhân lực và sự tham gia của người dân, doanh nghiệp vào lĩnh vực này còn nhiều hạn chế.

Là thành viên Đoàn giám sát của Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Nguyễn Thị Mai Phương cho biết, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 là một luật lớn, gồm 16 chương, 171 điều. Luật có nhiều chính sách mới mang tính đột phá, tiếp cận với xu hướng của thế giới như môi trường xanh, môi trường tuần hoàn… Vì thế, nội dung ban hành hướng dẫn chi tiết khá là nhiều.
Qua công tác giám sát của Quốc hội, đã nhận thấy nỗ lực lớn của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, trong đó có Bộ Tài nguyên và Môi trường (trước kia) và Bộ Nông nghiệp và Môi trường (hiện nay) trong việc ban hành thể chế hóa các nội dung quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Hệ thống pháp luật về môi trường hiện giờ có 3 Nghị định của Chính phủ, 3 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 8 Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường (trước đây) và Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các thông tư của các bộ, ngành khác.
Về ban hành văn bản pháp luật ở trung ương, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 05/2025/NĐ-CP đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho vấn đề xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Bên cạnh đó, còn có Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch bảo vệ môi trường tạo hành lang pháp lý vững chắc.
Về phía địa phương, các tỉnh, thành phố rất nỗ lực trong việc xây dựng các văn bản liên quan tới xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Theo thống kê, 56/63 tỉnh, thành phố trước sáp nhập đơn vị hành chính đã ban hành quy định về quản lý chất thải. Trong đó, có 34/63 tỉnh, thành phố có ban hành quy định về phân loại rác từ nguồn. Con số này thể hiện các địa phương rất quan tâm, đến vấn đề địa phương quan tâm thực thi luật bảo vệ môi trường.
“Luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2022. Tuy nhiên, quy định về phân loại rác sinh hoạt bắt buộc từ ngày 1/1/2025. Trước đó, chúng ta khuyến khích thực hiện chính sách này. Do vậy, việc có 34/63 tỉnh, thành phố đi trước một bước là một kết quả lớn, cho thấy sự quan tâm của các địa phương đối với việc thực thi Luật Bảo vệ môi trường”, bà Phương cho hay.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, Phó Chủ nhiệm Nguyễn Thị Mai Phương cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, bất cập nổi bật trong công tác ban hành văn bản hướng dẫn Luật.
Thứ nhất, do khối lượng văn bản đồ sộ, hầu hết đều được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn. Do đó, các quy định không phải qua bước đánh giá tác động chính sách, đánh giá thực tiễn, hạn chế trong việc lấy ý kiến của nhân dân… Do đó, phần nào hạn chế quyền tiếp cận của người dân cũng như tiếp cận trong việc truyền thông chính sách.
Thứ hai, một số văn bản quan trọng được ban hành chậm, gây ảnh hưởng dây chuyền. Cụ thể, dù quy định về phân loại rác sinh hoạt bắt buộc áp dụng từ ngày 1/1/2025, nhưng Thông tư 36/2024/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường (trước đây) về định mức kinh tế-kỹ thuật cho hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt mãi đến ngày 20/12/2024 mới được ban hành, khiến các địa phương cũng chậm theo trong công tác triển khai.
Thứ ba, sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương còn nhiều bất cập. Thí dụ điển hình là Nghị định 08/2022/NĐ-CP mới ban hành đã phải sửa đổi. “Sự thay đổi nhanh như vậy cũng gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân khi áp dụng pháp luật”, bà Nguyễn Thị Mai Phương nhấn mạnh.
Những bất cập này dẫn đến tình trạng dù đã ban hành quy định nhưng các địa phương vẫn rất lúng túng trong việc áp dụng đơn giá, định mức kinh tế kỹ thuật đối với rác thải sau xử lý.
"Nhìn chung, có thể khẳng định rằng kết quả hướng dẫn và ban hành văn bản chi tiết là đáng khích lệ, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần phải xử lý, sửa đổi để đáp ứng tình hình mới. Trong thời gian tới, cần có sự phối hợp mạnh mẽ hơn nữa giữa các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức trong cả việc tuyên truyền, vận động lẫn giám sát thực thi các quy định về bảo vệ môi trường", bà Nguyễn Thị Mai Phương nhận định.

