Còn ai đi hái nấm tràm!
Nếu có lúc nào đó bạn không hiểu vì sao bạn lại được chọn, và được yêu nhiều đến thế, thì tôi nghĩ là bạn nên thử ăn món nấm tràm. Câu trả lời nằm sau lớp vỏ.
Ở vùng quê mà tôi suýt về làm dâu ấy, mỗi năm có hai mùa hái nấm tràm. Một là vào tháng 4, hai là vào tháng 7 âm lịch. Tháng 4 năm nay, mà thật ra là nhiều năm nay, tôi không về đấy hái nấm được, dù cũng có người rủ. Tất nhiên, không phải anh, người từng dắt tay tôi đi dưới những tán rừng tràm ở miền Trung quê anh, từng cùng tôi hồi hộp lật giở từng lớp lá mục để tìm bắt những cây nấm màu tím mũm mĩm ú tim dưới đó.
Đó cũng là lần duy nhất tôi về quê anh, trong những chuyến về nước ngắn ngủi của anh. Nhưng là lần thứ hai được vào rừng hái nấm cùng anh. Lần đầu, khó quên hơn nhiều, là tại một cánh rừng ngoại ô ở Nga, lúc sang thu. Kỷ niệm đó đến giờ này vẫn còn làm tôi thấy chóng mặt khi nhớ lại, vì khung cảnh của nó quá đẹp, đẹp đến nỗi tôi không thể tin nổi nó lại sinh ra để... dành cho một đứa loem ngoem như mình.
Mùa thu ở trời Âu còn đâu có thể đẹp hơn những cánh rừng. Khung cảnh hiện ra đúng như những dòng tôi đã được đọc trong truyện “Lẵng quả thông”: “Mọi khu rừng đều đẹp với bầu không khí phảng phất mùi nấm, với tiếng lá rì rào...”. Phải rồi, chính xác là những gì từng được đại văn hào Nga K.G.Paustovsky miêu tả trong “Lẵng quả thông”, dù khác chúng tôi, cô bé trong truyện của ông đi vào rừng để nhặt quả thông chứ không phải hái nấm: “Trời đang thu. Nếu như ta có thể lấy hết đồng và vàng trên trái đất đem đánh thành muôn vàn lá cây rất mực tinh xảo thì những chiếc lá đó cũng chỉ có thể làm thành một phần rất nhỏ bộ quần áo mà mùa thu đang trải trên những ngọn núi kia mà thôi...”.
Những thảm lá đẹp đến nỗi khiến tôi đôi lúc quên mất việc chính của mình là đi hái nấm, cũng như quên cả nguy cơ bị lạc, nếu không lo mà làm cái đuôi cun cút đi sau lưng người ta. Anh thậm chí còn dọa tôi là còn có thể đụng gấu, dù suốt dọc đường đi, tôi chủ yếu gặp sóc. Những chú sóc nhỏ với đôi mắt đen tròn như hạt đậu cứ nhìn chằm chằm vào “đôi đũa lệch”, như không sao hiểu nổi lựa chọn “thiếu thẩm mỹ” đó của anh. Có lần tôi hỏi vì sao anh không nghĩ ra trò gì khác ngoài... dắt người yêu đi hái nấm, thì anh cười bảo: “Không yêu được chân dài thì đành... đi hái nấm chứ sao!”. Giờ mỗi lần ăn món nấm, tôi lại như nghe văng vẳng lời “dìm hàng” ấy của anh. Mới thôi, mà đã mười năm có lẻ, và kỷ niệm cũng dần chìm lấp như những chiếc ô nấm ẩn dưới lớp mùn...
Nấm tràm thật ra không dễ ăn, vì hơi đắng. Rất đắng là khác! Nhưng ai đã trót nghiện rồi thì sẽ còn nhớ mãi. Sau lớp vỏ tím thẫm, loem ngoem bùn đất, không lấy gì làm bắt mắt, là lớp ruột trắng nõn, thoảng mùi dầu tràm thơm ngái, vị bùi phải biết! Thích dân dã thì nấu với rau khoai lang, thích chảnh chót thì nấu với hải sản - đều hợp cả...
Nếu có lúc nào đó bạn không hiểu vì sao bạn lại được chọn, và được yêu nhiều đến thế, thì tôi nghĩ là bạn nên thử ăn món nấm tràm. Câu trả lời nằm sau lớp vỏ. Còn tôi thì đã lâu rồi không được ăn món nấm tràm, dù vẫn nhớ như in vị - đắng - ngọt - ngào của nó.
Thơ ai ấy nhỉ, từng len lén thở dài: “Ta đã lớn. Và Paustovsky đã chết”?
Còn ai cùng tôi đi hái nấm tràm?