Cán bộ vùng cao kỷ nguyên vươn mình: Từ “cắm bản” tới tiên phong “cắm mốc đổi thay”Bài 3: Đặt 'nền móng số' giữa non cao
Bước vào kỷ nguyên mới, việc phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là yếu tố có ý nghĩa sống còn để đất nước phát triển hùng cường, thịnh vượng. “Không để ai bị bỏ lại phía sau”, công cuộc chuyển đổi số tại các xã vùng cao, vùng lõm sóng, đông đồng bào các dân tộc thiểu số đã tạo ra những chuyển biến quan trọng, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, giúp người dân tiếp cận các xu hướng kinh tế, mở ra nhiều cơ hội mới để thoát nghèo bền vững.
Vượt dốc công nghệ...
Theo Chuyên gia tư vấn của Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, có 4 vấn đề vừa mang tính thời sự, vừa mang tính lâu dài cần phải làm để đất nước vươn mình, đó là thể chế; tổ chức, bộ máy; chống lãng phí, tham nhũng, tiêu cực; và yêu cầu mang tính đột phá của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia.
“Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, chúng ta phải coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là "chìa khóa vàng", là yếu tố sống còn để vượt qua bẫy thu nhập trung bình và nguy cơ tụt hậu, đồng thời hiện thực hóa khát vọng hùng cường và thịnh vượng của dân tộc”.
Tổng Bí thư Tô Lâm
Ông Hiển khẳng định, “trong 4 yêu cầu mang tính cách mạng đó, như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra đột phá quan trọng là: Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, chúng ta phải coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là "chìa khóa vàng", là yếu tố sống còn để vượt qua bẫy thu nhập trung bình và nguy cơ tụt hậu, đồng thời hiện thực hóa khát vọng hùng cường và thịnh vượng của dân tộc”.
.jpg)
Thực tế, sau 3 tháng thực hiện chính quyền hai cấp, cán bộ, công chức các xã, phường vùng cao đã và đang vượt khó, thích ứng với bộ máy mới. Sự linh hoạt, vượt khó của mỗi cán bộ đã góp phần đưa bộ máy vận hành ổn định, thông suốt. Cùng với đó, công tác chuyển đổi số cũng từng bước tiếp cận và đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Theo chân người dân tiếp cận việc giải quyết thủ tục hành chính sau sáp nhập bộ máy tại xã Bảo Lâm 5 (tỉnh Lâm Đồng), mặc dù đây là xã vùng sâu, khó khăn của tỉnh, với gần 65% là người dân tộc thiểu số nhưng chính quyền xã đã chuẩn bị, thực hiện khá hiệu quả công tác chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin như: internet, phần mềm, dữ liệu số, chính quyền điện tử … để phục vụ công việc.

Chỉ trong tháng 7 và 8/2025, Trung tâm hành chính công của xã Bảo Lâm 5 tiếp nhận 576 hồ sơ thủ tục hành chính (tiếp nhận trực tuyến 501 hồ sơ) đã số hoá và giải quyết đạt 96,7% hồ sơ (sớm hạn 539 hồ sơ), chỉ có 1 hồ sơ quá hạn, 12 hồ sơ đang giải quyết chưa đến hạn).
Tại Phường 3 Bảo Lộc, số hồ sơ tiếp nhận rất lớn. Trong tháng 8 là 1.431 hồ sơ (tiếp nhận trực tuyến: 868 hồ sơ), đã giải quyết đúng và sớm hạn:1.419, quá hạn chỉ 12 hồ sơ do tạm ngưng để thực hiện nghĩa vụ tài chính. Đó là những nỗ lực vượt dốc công nghệ của cán bộ, công chức cấp xã ở vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số, minh chứng hiệu quả của chính quyền gần dân, phụng sự Nhân dân.
Theo Phó Chủ tịch UBND xã Bảo Lâm 5 Lê Xuân Vũ, xã đã đầu tư trang thiết bị công nghệ số tại Trung tâm Hành chính công để giải quyết công việc nhanh hơn, hiệu quả hơn; tập trung chỉ đạo thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong từng ngành, lĩnh vực. Duy trì và vận hành hiệu quả Trang thông tin điện tử của xã; 100% cơ quan đơn vị sử dụng thường xuyên văn phòng điện tử VNPT-iOffice, hệ thống thư điện tử công vụ, chứng thư số, ứng dụng chữ ký số theo quy định... Nhờ vậy, dù cách xa tỉnh lỵ nhưng vận hành của bộ máy chính quyền và hệ thống chính trị phục vụ Nhân dân đều bảo đảm yêu cầu.
.jpg)
Tuy nhiên trên thực tế, nhiều bà con đồng bào người dân tộc thiểu số không có thiết bị điện thoại thông minh, người có thì chưa biết sử dụng dịch vụ trực tuyến. Hơn nữa, thiết bị máy móc tại trụ sở chủ yếu được tận dụng từ các đơn vị hành chính cũ, kinh phí dành cho hoạt động này hạn hẹp, chưa được đầu tư mới đồng bộ; tốc độ đường truyền Internet chưa ổn định, nhân lực chuyên trách chưa được đào tạo hệ thống, bài bản. Hơn thế, đây là những địa bàn vùng sâu, vùng xa, phần đông người đồng bào dân tộc thiểu số trình độ dân trí còn thấp nên quá trình triển khai thực hiện chuyển đổi số gặp khó khăn.
Gieo “hạt giống” số
Nếu những năm 1945, Việt Nam cần phong trào “Bình dân học vụ” để mọi người dân biết đọc, biết viết thì ngày nay mỗi người đều cần biết sử dụng công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo để có thể bắt kịp sự phát triển của thế giới. “Chúng ta phải tạo ra những thế hệ trẻ có kiến thức, kỹ năng về trí tuệ nhân tạo, phát huy sức mạnh toàn dân - như từng làm trong kháng chiến. Từ trung ương đến địa phương, từ chính quyền đến giới trẻ, tất cả cần cùng nhau đổi mới, dấn thân vì sự phát triển của dân tộc”, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn FPT Trương Gia Bình nhận định.
.jpg)
Cùng quan điểm, ĐBQH hoạt động chuyên trách tại Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khoá XV, ông Tráng A Dương cho rằng, để chuyển đổi số trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt hiệu quả, hệ thống chính trị các cấp tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của bà con về các vấn đề liên quan đến công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin, mạng internet trong đời sống và sản xuất.
Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, để “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong công cuộc số hóa, yếu tố “con người” luôn là trọng tâm, làm thế nào để có được đội ngũ cán bộ “bám bản” giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm, thông thạo kỹ năng số là vấn đề ưu tiên hàng đầu.
Bí Thư Đảng uỷ - Chủ tịch UBND xã Tuyên Lâm (tỉnh Quảng Trị) Đinh Xuân Thương khẳng định, hiện nay toàn bộ cán bộ, công chức xã đều sử dụng, áp dụng thành thạo các ứng dụng công nghệ thông tin, máy tính, các phần mềm hỗ trợ công việc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Triển khai công tác chuyển đổi số một cách thực chất, xã đã làm điểm, làm mẫu trước để bà con dễ tiếp cận, dễ tham gia. Cụ thể, xây dựng mô hình “thôn số”, trong đó lựa chọn một số thôn có điều kiện thuận lợi hơn để thí điểm. Tại đây, các dịch vụ công trực tuyến được ưu tiên triển khai; cán bộ trực tiếp hỗ trợ người dân làm thủ tục trên máy tính, điện thoại. Hay, thí điểm “gian hàng số” cho sản phẩm nông sản: hướng dẫn các hộ dân cách đưa mật ong, măng khô, thổ cẩm… lên các sàn thương mại điện tử. Qua đó, tiếp cận khách hàng rộng rãi hơn, giá bán ổn định hơn. Nổi bật là hộ gia đình chị Hồ Thị Hà ở bản Kè; chị Đinh Thị Hương ở bản Cáo là người Mã Liềng (dân tộc Chứt) đã học cách đưa mật ong rừng và sản phẩm lên các trang mạng để bán. Ban đầu còn bỡ ngỡ nhưng khi thấy sản phẩm bán được, họ trở thành tấm gương, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm cho bà con trong bản.
“Mục tiêu sắp tới là mở rộng “thôn số”, “gian hàng số” và từng bước hình thành các mô hình chuyển đổi số gắn với xây dựng nông thôn mới nâng cao” - Chủ tịch UBND xã Tuyên Lâm (tỉnh Quảng Trị) Đinh Xuân Thương chia sẻ.
.jpg)
Ảnh: Hải Yến
Hiện nay, tỉnh Lâm Đồng có 124 xã và các sở, ngành trong toàn tỉnh đang triển khai thí điểm (1 tháng, sau đó tổng kết khoa học, nhân rộng) 5 mô hình, sáng kiến cải cách hành chính theo Quyết định số 787/QĐ-UBND ngày 21/8/2025 của UBND tỉnh nhằm nâng cao sự hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm: Mô hình “Công khai Thủ tục hành chính số” (100% TTHC công khai tại Bộ phận Một cửa các cấp được gắn mã QR và tra cứu điện tử thông qua máy tra cứu thông tin TTHC); Mô hình “Hồ sơ giấy một lần” (2 TTHC) ; Mô hình “Hồ sơ không bản giấy” (3 TTHC) ; Mô hình “Hồ sơ không hẹn” (3 TTHC) và Mô hình “Hồ sơ phi địa giới hành chính” ( 63 TTHC) đối với các thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Nội vụ.
“Một trong những mục tiêu ưu tiên của tỉnh là phải nằm trong top đầu các tỉnh/thành thực hiện chuyển đổi số gắn với xây dựng hoàn chỉnh chính quyền điện tử, chính quyền số chuyển mạnh sang mô hình quản lý công mới”- Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh K’Mák cho biết.
Trong cuộc chuyển mình mạnh mẽ của chính quyền hai cấp, chuyển đổi số nơi vùng cao không chỉ là hành trình đưa công nghệ về bản mà là quá trình “cắm rễ” tư duy đổi mới vào đời sống đồng bào. Khi “sóng phủ vùng cao, bà con dùng công nghệ”, đó không chỉ là kết quả của một hành trình nỗ lực mà còn là dấu ấn của niềm tin, sự kiên trì không mỏi của những người mở đường. Chuyển đổi số ở vùng cao chỉ thành công khi mỗi người đều nhận thấy tầm quan trọng và cơ hội để đổi thay.

