Chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, toàn trình: Hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng dân tộc
Chuyển đổi số là xu thế tất yếu và đòi hỏi khách quan của thời đại, là "cánh cửa" mở ra cơ hội cho các quốc gia bứt phá vươn lên. Tại Việt Nam, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là lựa chọn chiến lược để hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng dân tộc trong bối cảnh thế giới chuyển động nhanh với tốc độ chưa từng có.
Tiến trình chuyển đổi đang diễn ra mạnh mẽ, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Năm 2025 là dấu mốc quan trọng với bước ngoặt lịch sử cải cách bộ máy nhà nước 2 cấp, cũng là năm bản lề, kết thúc 5 năm triển khai Chuyển đổi số Quốc gia giai đoạn đầu và mở ra Giai đoạn 2 (2026 - 2030).
Để chuyển đổi số đi vào chiều sâu, hiệu quả phải được đo bằng sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp, phải tạo ra giá trị thực tiễn, đóng góp rõ rệt cho phát triển kinh tế - xã hội. Chùm bài dưới góc nhìn khách quan cùng điểm lại hành trình từ những bỡ ngỡ ban đầu tới bước đổi thay, bứt phá; biểu dương thành tựu đáng khích lệ và nhận diện trực quan những thách thức, "điểm nghẽn" tồn tại. Từ đó, gợi mở suy ngẫm, chia sẻ giải pháp kiến tạo Việt Nam hùng cường, khẳng định vị thế trong kỷ nguyên số.
Bài 1: "Chìa khóa vàng" mở ra kỷ nguyên mới
“Trong bối cảnh toàn cầu hóa cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ số đã và đang khẳng định vai trò và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội. Chuyển đổi số không chỉ là xu hướng tất yếu mà còn là yêu cầu cấp thiết để Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới. Điều này không chỉ mở ra cơ hội cải thiện năng suất lao động mà còn tạo điều kiện để đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi tầng lớp nhân dân" - Tổng Bí thư Tô Lâm.

Hành trình ý chí, khát vọng và trí tuệ
Bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa, bùng nổ về công nghệ, thế giới đã chứng kiến một cuộc chuyển mình chưa từng có - nơi dữ liệu trở thành "tài nguyên" quan trọng và chuyển đổi số trở thành "chìa khóa vàng" để đột phá. Internet, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, Big data… không chỉ thay đổi cách con người giao tiếp, làm việc mà còn định hình lại mô hình quản trị, kinh doanh, giáo dục, y tế... các quốc gia.
Đại dịch Covid-19 bùng phát chính là "cú hích" thay đổi nhận thức, khẳng định chuyển đổi số là xu thế tất yếu, không thể thay thế. Những tháng ngày giãn cách phòng dịch thúc đẩy tiến trình số hóa, hình thành hàng loạt nền tảng quan trọng như Hệ thống họp trực tuyến Chính phủ, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu đất đai, Cổng Dịch vụ công quốc gia. Cùng với đó, hạ tầng định danh và xác thực điện tử hình thành, tạo nền tảng để người dân giao dịch trực tuyến an toàn, là lựa chọn sống còn để quốc gia thích ứng, phục hồi và phát triển trong bối cảnh mới.

Dù đối mặt với nhiều khó khăn ngay từ những bước khởi đầu, song, Việt Nam nhận thức rõ tầm quan trọng và sớm xác định công tác chuyển đổi số là đột phá chiến lược để bứt phá, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Theo đó, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020, phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030". Chương trình đặt ra một tầm nhìn lớn: Đến năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia số ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới toàn diện hoạt động của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân.
Lần đầu tiên, các khái niệm "chuyển đổi số", "kinh tế số", "xã hội số" được chính thức đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, khẳng định quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc đưa đất nước bước vào kỷ nguyên số. Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, "khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và dữ liệu phải trở thành động lực then chốt".
Sau 5 năm chuyển đổi số (2020 - 2025), với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ và nỗ lực của cả hệ thống chính trị, chuyển đổi số quốc gia đã đạt những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Theo Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng, kể từ khi Chính phủ ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, hành trình ấy đã thực sự lan tỏa mạnh mẽ. Từ nhận thức đến hành động, từ Trung ương đến địa phương, từ cơ quan nhà nước đến doanh nghiệp và người dân, chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu, là dòng chảy chủ đạo trong phát triển quốc gia.
Năm 2020, Chính phủ ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, mở ra một kỷ nguyên phát triển mới, khi chuyển đổi số được xác định là động lực đột phá của tăng trưởng và đổi mới sáng tạo. Dù khởi đầu trong bối cảnh đại dịch Covid-19, toàn hệ thống chính trị đã nỗ lực "vừa chống dịch, vừa phát triển số", đặt nền móng cho một giai đoạn chuyển đổi sâu sắc chưa từng có.

Năm 2021, Việt Nam bước vào giai đoạn triển khai đồng bộ các nền tảng số cốt lõi. Các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng và ban hành kế hoạch chuyển đổi số riêng, tạo nên một phong trào toàn quốc. Cơ sở hạ tầng viễn thông, trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây được đầu tư mạnh; các dịch vụ công trực tuyến đầu tiên được tích hợp toàn trình. Đó là năm đánh dấu bước chuyển từ nhận thức sang hành động.
Năm 2022 là bước tiến vượt bậc trong số hóa hoạt động quản lý nhà nước. Hàng trăm nghìn thủ tục hành chính được đơn giản hóa; 80% bộ, ngành, địa phương có nền tảng chia sẻ dữ liệu dùng chung; hàng loạt mô hình chính quyền số, đô thị thông minh được hình thành. Chính phủ chỉ đạo triển khai năm dữ liệu quốc gia trọng điểm, tạo nền tảng cho quản trị dựa trên dữ liệu.
Năm 2023, với việc triển khai Đề án 06 của Chính phủ về phát triển dữ liệu dân cư và định danh điện tử, chuyển đổi số thực sự lan tỏa đến từng người dân. Các dịch vụ công thiết yếu như đăng ký cư trú, cấp căn cước, khai sinh, bảo hiểm, y tế, giáo dục đều được số hóa, giúp người dân "sinh - học - làm - sống" trên môi trường số. Đây là năm mà chuyển đổi số bước ra khỏi văn phòng, đi vào đời sống.
Năm 2024, hạ tầng số quốc gia được củng cố vững chắc hơn bao giờ hết. Các bộ, ngành đã kết nối liên thông dữ liệu, hình thành nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP); kinh tế số đạt gần 20% GDP, Việt Nam vươn lên nhóm 50 quốc gia dẫn đầu thế giới về Chính phủ điện tử. Đây là năm đánh dấu sự trưởng thành của hệ sinh thái số Việt Nam.
“Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu cho phát triển nhanh và bền vững; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, nhân dân ấm no, hạnh phúc, không có ai bị bỏ lại phía sau”
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
"Cú hích" từ "khoán 10" trong khoa học
Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, thế giới số chuyển động từng giây và nếu chậm một phút, có thể tụt hậu hàng năm. Chính tinh thần dám nghĩ dám làm, dám khai phá đã giúp Việt Nam vươn lên nhóm quốc gia có tốc độ chuyển đổi số nhanh nhất khu vực và thế giới.
Hạ tầng số phát triển mạnh mẽ khi mạng viễn thông băng rộng đã phủ tới 99,3% thôn, bản trên cả nước; tốc độ Internet di động đạt trung bình 146,64 Mb/giây, xếp hạng 20 thế giới; mạng 5G cũng bắt đầu được triển khai (đạt 26% diện phủ sóng). Những con số này minh chứng hạ tầng số Việt Nam đã sẵn sàng cho giai đoạn bùng nổ dịch vụ.

Nửa thập kỷ chuyển đổi số đã tạo nền tảng tương đối vững chắc cho quốc gia số. Tuy vậy, nhiều chuyên gia cho rằng, hành trình phía trước không chỉ cần công nghệ, mà cần "cú hích về thể chế". Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được xem là một dấu mốc lịch sử - một "Nghị quyết Khoán 10" mới cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Nghị quyết số 57-NQ/TW - văn kiện có ý nghĩa lịch sử trong việc định hình tư duy phát triển hạ tầng thông tin, dữ liệu và chuyển đổi số toàn diện. Nghị quyết đã mở ra một giai đoạn mới, trong đó chuyển đổi số được xác định là 1 trong 3 đột phá chiến lược, cùng với thể chế và hạ tầng, tạo nền tảng cho tăng trưởng nhanh, bền vững và bao trùm. Nghị quyết tập trung giải quyết "điểm nghẽn cơ chế" bằng cách khoán theo sản phẩm, trao quyền tự chủ thực chất, chấp nhận rủi ro có kiểm soát, chuyển quản lý từ "đi từng hóa đơn" sang đánh giá hiệu quả nghiên cứu.

Trên tinh thần đó, Chính phủ cũng ban hành các kế hoạch quan trọng (như Nghị quyết 71/NQ-CP về phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số), để tạo hành lang pháp lý vững chắc cho tiến trình số hóa toàn diện. Nghị quyết 03/NQ-CP với phương châm "5 rõ", đã giao hơn 100 nhiệm vụ cụ thể, từ phát triển hạ tầng dữ liệu, công nghiệp AI - IoT đến mở dữ liệu quốc gia và hình thành ngành công nghiệp dữ liệu lớn. Đến nay, tất cả bộ, ngành và địa phương hiện đều đã ban hành và triển khai chiến lược/kế hoạch chuyển đổi số cho giai đoạn mới, bám sát các mục tiêu quốc gia.
Nếu được triển khai quyết liệt, đồng bộ và thực chất, "Khoán 10" trong thời đại số sẽ không chỉ tháo gỡ điểm nghẽn của khoa học công nghệ mà còn giúp Việt Nam tiến nhanh hơn trong kinh tế số, quản trị số và xã hội số. Khi ấy, tri thức - công nghệ - sáng tạo sẽ trở thành nguồn lực mạnh mẽ nhất để Việt Nam bước vào thập kỷ mới với tâm thế chủ động và tự tin. Tuy nhiên, chặng đường phía trước còn nhiều việc phải làm để chuyển đổi số thực sự mang lại tác động rõ rệt đến phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Năm 2025 là năm bản lề, kết thúc 5 năm triển khai Chuyển đổi số Quốc gia và mở ra Giai đoạn 2 (2026 - 2030). Đây sẽ là giai đoạn chuyển đổi số ở mức độ sâu rộng hơn, với trọng tâm là tạo ra giá trị kinh tế - xã hội cụ thể. Mục tiêu cao nhất của chuyển đổi số giai đoạn 2 là phải chuyển hóa những thành quả số hóa thành tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất, năng lực cạnh tranh quốc gia; cải thiện hiệu quả quản trị và chất lượng ra quyết định ở mọi cấp. Nói cách khác, phải hướng đến kết quả cuối cùng, đo bằng lợi ích mang lại cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế.

