TỔNG THUẬT: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững”

- Chủ Nhật, 18/09/2022, 13:30 - Chia sẻ

* Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tham dự

Chiều nay, đúng 13h30', Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2022 tiến hành họp Phiên toàn thể với chủ đề: “Củng cố nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, GS.TS Vương Đình Huệ; Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn; Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành Phiên toàn thể.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu

Tại Phiên toàn thể, các đại biểu nghe Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong trình bày tóm tắt nội dung Phiên hội thảo chuyên đề về “Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội”; Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Lê Văn Lợi trình bày tóm tắt nội dung Phiên hội thảo chuyên đề về “Thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, tạo động lực phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững”.

Tiếp đó, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quang Phương trình bày tham luận với chủ đề: “Bối cảnh quốc tế; tổng quan kinh tế-xã hội Việt Nam năm 2022 và triển vọng năm 2023”; Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới (WB) Andrea Coppola trình bày tham luận: “Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 - những đề xuất phát triển kinh tế xanh và kinh tế số”; Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), TS. Cấn Văn Lực – Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, trình bày tham luận: “Nâng cao năng lực chống chịu, tính tự cường của nền kinh tế và thúc đẩy phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội”. 

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -1
Ảnh: Lâm Hiển

Các báo cáo, tham luận trình bày tại Phiên toàn thể cho thấy, trong bối cảnh kinh tế-chính trị, xã hội trên thế giới có nhiều biến động, tiềm ẩn rủi ro đối với kinh tế-xã hội Việt Nam, kết quả đạt được trong 8 tháng đầu năm có nhiều điểm sáng, cho thấy quyết tâm, đồng lòng của cả hệ thống chính trị để vượt qua thách thức, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội hướng đến phát triển bền vững. Nhiều khuyến nghị, đề xuất chính sách về phát triển kinh tế xanh, kinh tế số - xu thế tất yếu, một động lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế vì mục tiêu phát triển bền vững; đánh giá năng lực chống chịu và tính tự cường của nền kinh tế - nội dung khá thời sự để các cơ quan chức năng tham khảo; những động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, phục hồi và phát triển bền vững… được các chuyên gia trong nước và quốc tế chia sẻ, đề xuất trực tiếp và trực tuyến tại Phiên toàn thể.

Theo chương trình, các đại biểu là chuyên gia, doanh nghiệp… trao đổi, đóng góp ý kiến về khả năng phục hồi và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; những khó khăn, vướng mắc trong việc tiếp nhận các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, nhất là Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội…

Ngay sau Phiên toàn thể, Diễn đàn Kinh tế-Xã hội năm 2022 tiến hành Phiên tọa đàm cấp cao với sự tham gia trao đổi của Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Thanh Hà, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi, Trưởng đại diện của IMF tại Việt Nam và Lào; nguyên Quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Việt Nam; Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, TS. Võ Trí Thành…  

13h55': Cần thay đổi cơ bản chính sách tài chính về đất đai trong Luật Đất đai

Báo cáo kết quả Hội thảo Chuyên đề 1: Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong cho biết, Hội thảo Chuyên đề 1 được thực hiện với hai phiên chính Tham luận và Thảo luận đã thành công tốt đẹp. Hội thảo đã nghe ba tham luận và 8 ý kiến phát biểu, trong đó có hai ý kiến phát biểu của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.  

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong phát biểu. Ảnh Lâm Hiển

Các báo cáo, ý kiến tham luận và phát biểu tại Hội thảo tập trung vào những nội dung trọng tâm về đẩy mạnh cải cách thể chế - hoàn thiện chính sách về đất đai.

Ông Nguyễn Thành Phong nêu rõ, có 3 nội dung, mà các đại biểu cho rằng, là cải cách đột phá trong sửa đổi Luật, sẽ mang lại tác động tích cực, đưa đất đai trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế, nâng cao cuộc sống người dân. 

Một là, công cụ quan trọng thể hiện quyền năng của Nhà nước, đó là công tác quy hoạch cần phải đổi mới cả nội dung và hình thức; phải thể hiện được quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan thực thi pháp luật và giải quyết triệt để những khó khăn, vướng mắc, bất cập do công tác quy hoạch trong những năm vừa qua. Hai là, công tác định giá đất, hay mở rộng hơn nữa là công tác kinh tế và tài chính đất đai. Ba là, hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu số và hệ thống thông tin quốc gia về đất đai tập trung, thống nhất, đồng bộ, đa mục tiêu và kết nối liên thông. 

Đối với chính sách tài chính về đất đai, hệ thống tài chính đất đai bao gồm hai nội dung cơ bản: một là giá đất do nhà nước quy định phải phù hợp với giá trị thị trường; và hai là phải cải cách hệ thống thuế sử dụng đất để sao cho phù hợp với mức thu nhập của người lao động, người dân đồng thời sử dụng công cụ thuế để ngăn ngừa tình trạng đầu cơ đất đai, có đất nhưng không đưa đất vào sử dụng, để đất hoang hóa. Như vậy, vấn đề giá đất và các chính sách về tài chính đất đai ngoài chính sách thuế sẽ được xem xét và quy định tại Luật Đất đai, nhưng các chính sách về thuế sử dụng đất hoặc thuế bất động sản (hoặc thuế tài sản) lại được quy định trong các luật về thuế, cần xây dựng đồng bộ với Luật Đất đai. Đối với các chính sách về tài chính đất đai, vấn đề chính là các chính sách vốn hóa đất đai trong khu vực nhà nước và khu vực các nhà đầu tư. Chính sách vốn hóa đất đai thuộc khu vực nhà nước tập trung chủ yếu vào đổi mới cơ chế thu từ đất sao cho nguồn thu chủ yếu từ thuế và nguồn thu từ giá trị tăng thêm của đất đai do đầu tư trên đất mang lại…

Hội thảo Chuyên đề 1 đã có nhiều kiến nghị, đề xuất nhằm đẩy mạnh cải cách thể chế, hoàn thiện chính sách về đất đai. Trong đó, các đại biểu khuyến nghị, đề xuất cần tiếp tục phát huy vai trò của công tác xây dựng và thi hành pháp luật trong cải cách, hoàn thiện thể chế. Cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác xây dựng và thi hành pháp luật, trong đó tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau: Tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về vai trò của công tác xây dựng và thi hành pháp luật; tăng cường năng lực cho các chủ thể tham gia công tác xây dựng và thi hành pháp luật; tiếp tục nghiên cứu cải tiến quy trình lập pháp, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng pháp luật; tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra, rà soát văn bản, sơ kết, tổng kết việc thi hành pháp luật.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Các đại biểu dự Tọa đàm. Ảnh: Hồ Long

Đối với việc hoàn thiện chính sách đất đai, nhất là chính sách tài chính, chính sách phát triển thị trường bất động sản, cần chú trọng thay đổi cơ bản chính sách tài chính về đất đai trong sửa đổi Luật Đất đai năm 2013. Đó là: Có cơ chế điều tiết hợp lý, hiệu quả nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất giữa Trung ương và địa phương; nghiên cứu có chính sách điều tiết chênh lệch địa tô, bảo đảm công khai, minh bạch; xây dựng chính sách, pháp luật về thuế sử dụng đất theo thông lệ quốc tế, phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện cụ thể và lộ trình thích hợp; quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, bỏ đất hoang; chính sách ưu đãi thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với những địa phương được quy hoạch sản xuất nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ các loại rừng, nhất là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.

Cần đổi mới hệ thống tài chính đất đai, chú trọng tới các nội dung: đưa định nghĩa giá thị trường theo tiêu chuẩn quốc tế vào Luật Đất đai sửa đổi; chú trọng vào thuế chuyển nhượng bất động sản để tính toán sao cho giảm thuế suất để giá đất thực được tự các bên ghi nhận trên hợp đồng chuyển quyền; các luật thuế có liên quan đến đất đai phải ban hành đồng thời với Luật Đất đai sửa đổi; pháp luật về thuế thu nhập từ chuyển quyền cần quy định rõ tính thuế không căn cứ vào giá trị hợp đồng chuyển quyền, chỉ căn cứ vào giá đất do Nhà nước quy định; lập cơ sở dữ liệu giá đất thị trường, trước mắt có thể sử dụng ngay mạng của Công chứng; và đưa phần mềm xử lý dữ liệu để ước tính giá trị đất đai do Nhà nước quy định.

Với phát triển thị trường bất động sản, cần chú trọng vào các giải pháp, như đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất; chú trọng ứng dụng công nghệ hiện đại và chuyển đổi số trong quản lý nhà nước về đất đai, trọng tâm là xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin về đất đai; có các quy định về đất ở kết hợp với thương mại, dịch vụ, đất nông nghiệp kết hợp với thương mại, dịch vụ, đất cho dự án du lịch có yếu tố tâm linh, tín ngưỡng, nghiên cứu quy định chế độ sử dụng đất xây dựng công trình trên không, công trình ngầm.

Đối với đăng ký giao dịch và thông tin thị trường bất động sản, cần quy định bắt buộc các hoạt động giao dịch đất đai, bất động sản đều phải thông qua sàn giao dịch kiểm tra và xác thực, thay cho việc thực hiện công chứng như hiện nay, chỉ có tác dụng như lập vi bằng xác nhận có diễn ra giao dịch. Cơ chế giá đất cho phát triển thị trường bất động sản phải xác định phù hợp với giá trị thị trường của đất đai và sử dụng cơ chế thị trường trong lựa chọn các nhà đầu tư dự án phát triển bất động sản. Nhà nước phải trực tiếp thực hiện thu hồi và bồi thường giải phóng mặt bằng theo cơ chế thống nhất đối với mọi dự án đầu tư phát triển bất động sản có quyết định phê duyệt đầu tư của Nhà nước. Người dân có đất thu hồi được hưởng chính sách bồi thường và tái định cư thống nhất, đảm bảo tái lập cuộc sống bằng hoặc tốt hơn sau khi tái định cư. 

Thực hiện cơ chế điều tiết giá trị tăng lên của đất đai và bất động sản không do nhà đầu tư tạo ra thông qua cơ chế đánh thuế cao đối với phần chênh lệch giá bất động sản theo cơ chế lũy thoái theo độ dài khoảng thời gian giữa khi mua và bán; đánh thuế cao đối với diện tích và giá trị đất đai và bất động sản chiếm dụng vượt trên mức bình quân của xã hội.

Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất dành cho phát triển các công trình và dự án bất động sản phải phù hợp với chiến lược phát triển thị trường bất động sản để đảm bảo các dự án bất động sản được triển khai theo đúng tiến độ và đá ứng các nhu cầu về bất động sản phù hợp với qui mô, mức độ phát triển kinh tế- xã hội. 

Kiểm soát năng lực tài chính của nhà đầu tư phát triển bất động sản, tham gia đấu thầu dự án, đấu giá quyền sử dụng đất để tránh tình trạng dự án bỏ hoang chậm tiến độ, đất đấu giá cao rồi bỏ cọc. Phát triển các kênh dẫn vốn cho thị trường bất động sản theo hướng bền vững như quỹ tín thác đầu tư bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp có bảo đảm.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn với lãnh đạo, cán bộ, phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân tại Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2022

14h02': Kiểm soát tốt dịch bệnh, bảo đảm sự ổn định về vĩ mô

Báo cáo về kết quả phiên Hội thảo Chuyên đề 2 về “Thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao  động, tạo động lực phục hồi sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững” tại Phiên toàn thể, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Lê Văn Lợi cho biết, Phiên Hội thảo đã nghe các chuyên gia am hiểu sâu sắc về doanh nghiệp, về tư vấn hoạch định chính sách kinh tế và các vấn đề xã hội… chia sẻ và thảo luận nhiều vấn đề thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực cạnh tranh và sức chống chịu của doanh nghiệp trong bối cảnh mới; và bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, thúc đẩy việc làm bền vững. 

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Lê Văn Lợi phát biểu. Ảnh: Hồ Long

“Sau một buổi sáng làm việc hết sức nghiêm túc, chất lượng và hiệu quả, nhiều điểm nghẽn, khó khăn đã được định vị, nhiều nguyên nhân đã được kiến giải và cùng với đó, hệ thống giải pháp đồng bộ, nhất quán đã được các chuyên gia, nhà khoa học tham gia Diễn đàn cùng kiến nghị”, ông Lê Văn Lợi nói. 

Theo đó, đại dịch Covid-19 diễn ra trong hai năm 2020, 2021 vừa qua đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng, phát triển kinh tế của đất nước cũng như làm phát sinh, bộc lộ nhiều vấn đề xã hội cần quan tâm giải quyết. Ngay khi kiểm soát được tình hình, toàn hệ thống chính trị đã nhanh chóng vào cuộc để tìm phương án phục hồi sản xuất, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, bảo đảm an sinh xã hội. Quốc hội và Chính phủ đã khẩn trương, quyết liệt thảo luận và đưa ra các giải pháp phục hồi kinh tế sau đại dịch, giúp tạo sức bật cho nền kinh tế phục hồi, điển hình là Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình. Các chính sách được tính toán kỹ lưỡng, đồng bộ, phù hợp với bối cảnh và nguồn lực thực tế của đất nước và nhận được sự ủng hộ, tin trưởng của doanh nghiệp và người dân.

Sự phục hồi của nền kinh tế không chỉ được thể hiện ở các chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, cán cân xuất nhập khẩu hay tổng vốn đầu tư xã hội, mà còn thể hiện ở các tín hiệu tích cực ở các chỉ số về xã hội như tỷ lệ thất nghiệp, sự gia tăng số lượng việc làm mới, tỷ lệ giảm nghèo…

Tuy vậy, việc triển khai các chính sách trên thực tế và kết quả đạt được còn một số vấn đề tồn tại, vướng mắc. Đó là doanh nghiệp vẫn đang phải đối mặt với một số khó khăn do trong tiếp cận nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, thiếu vốn lưu động, chi phí đầu vào sản xuất tăng cao nhưng doanh thu và lợi nhuận bị thu hẹp. Thị trường lao động - việc làm còn nhiều bất cập, việc tuyển dụng lao động của doanh nghiệp gặp khó khăn để bảo đảm cả về số lượng và chất lượng lao động; tỷ lệ lao động phi chính thức lớn, cung - cầu lao động còn thiếu cân bằng và có hiện tượng mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ ở một số địa phương hay ngành, lĩnh vực kinh tế. Mức độ bao phủ của lưới an sinh xã hội còn chưa đủ lớn, mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội và giáo dục hướng nghiệp vẫn còn chưa đạt được hiệu quả như kỳ vọng.

Tuy chính sách được ban hành đúng lúc nhưng điều kiện đáp ứng còn bất cập, thủ tục hành chính còn rườm rà khiến chi phí tuân thủ chính sách lớn. Trong một số trường hợp, các chính sách được xây dựng chưa sát đối với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp hoặc thiếu hướng dẫn cụ thể về điều kiện tiếp cận và thụ hưởng khiến doanh nghiệp khó khai thác được tối đa các ưu đãi chính sách để phục hồi và phát triển sản xuất. Liều lượng chính sách và quy mô các gói hỗ trợ còn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của doanh nghiệp và người lao động; hiệu quả tác động của chính sách chưa đạt được như kỳ vọng và thiếu đánh giá một cách toàn diện. 

Đứng trước các khó khăn và bất cập được xác định như vậy, các chuyên gia, học giả và nhà khoa học cũng đã kiến nghị nhiều giải pháp đầy tâm huyết. 

Trong đó, cần kiểm soát tốt dịch bệnh, bảo đảm sự ổn định về vĩ mô, đặc biệt là thị trường tài chính, đảm bảo những cân đối lớn trong nền kinh tế. Đây là căn cứ quan trọng nhất để các chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế đạt được hiệu lực và hiệu quả.

Nhanh chóng khắc phục các bất cập trong các quy định của luật pháp và hoàn thiện khung khổ pháp lý, tiếp tục cải cách và đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các gói hỗ trợ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa và những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng như xuất khẩu, du lịch, nông nghiệp, tài chính, logistics, bất động sản…

Đẩy mạnh hơn nữa xây dựng và thực thi nhóm chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động việc làm hiện đại, liên thông, kết nối đi kèm với các giải pháp nhằm chính thức hóa lao động phi chính thức, tăng độ bao phủ an sinh xã hội. 

Tạo điều kiện để cho các địa phương, các ngành kinh tế phát triển; đẩy nhanh việc hoàn thiện các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng, của địa phương; tăng cường liên kết vùng để tạo ra sự đồng bộ, thông suốt và động lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của địa phương. 

Tăng tốc và đẩy mạnh quá trình số hóa và điện tử hóa hoạt động quản lý Nhà nước cũng như cung cấp dịch vụ công cho doanh nghiệp và người dân. Điều này cần được triển khai thông qua các giải pháp cụ thể như xây dựng hệ thống dữ liệu lớn trong quản lý nhà nước, tích hợp các loại giấy tờ hành chính trong cùng một hệ thống đồng bộ, thúc đẩy cung ứng dịch vụ công phát triển theo hướng chính phủ phục vụ… 

Để các chính sách của Nhà nước thực sự đem lại hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng, phát triển và phục hồi kinh tế sau đại dịch, không thể thiếu vắng sự đồng hành của doanh nghiệp thể hiện qua sự năng động, sáng tạo của chính những người điều hành doanh nghiệp, không ngừng áp dụng các giải pháp tối ưu hóa hoạt động sản xuất kinh doạnh, chủ động trong phát triển thị trường, định hướng thói quen của người tiêu dùng, khai thác tối đa các lợi thế về khoa học công nghệ như số hóa quy trình và hoạt động quản trị, khai thác tối đa lợi thế của thương mại điện tử cũng như  tham gia sâu sắc và gắn kết hơn với chuỗi giá trị toàn cầu. 

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Các đại biểu dự Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2022 chiều 18.9

14h16': Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương: Kiểm soát lạm phát ở mức phù hợp, tạo dư địa điều hành tăng trưởng kinh tế

Báo cáo về bối cảnh quốc tế, tổng quan kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2022 và triển vọng năm 2023, ông Trần Quốc Phương nêu rõ, sự xuất hiện của đại dịch Covid-19 từ đầu năm 2020 đến nay cùng với các vấn đề mới xuất hiện năm 2022 như xung đột Nga - Ucraina, suy giảm tăng trưởng và lạm phát cao tại Mỹ, EU và nhiều nước phát triển, đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất, tiêu dùng, việc điều chỉnh đảo ngược nhanh, mạnh các chính sách tiền tệ, tài khóa của nhiều nền kinh tế lớn, thiên tai, lũ lụt, hạn hán và nguy cơ mất ổn định an ninh năng lượng, lương thực… đã khiến tình hình thế giới nhìn chung diễn biến theo chiều hướng phức tạp, kém lạc quan hơn. Những yếu tố này đã chuyển nhiều vấn đề ngắn hạn trở thành vấn đề trong trung và dài hạn tại nhiều nền kinh tế lớn, gây rất nhiều khó khăn, thách thức trong chỉ đạo, điều hành, tham mưu phát triển KT - XH năm 2023 và các năm tiếp theo; tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức về tăng trưởng, ổn định vĩ mô, các lĩnh vực xã hội, đời sống người dân, nhất là người nghèo, người thu nhập thấp.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương phát biểu. Ảnh: Hồ Long

Năm 2023 là năm sơ kết, đánh giá giữa kỳ các Kế hoạch 5 năm về KT - XH, cơ cấu lại nền kinh tế, đầu tư công, tài chính công… Các kết quả đạt được của năm 2023 là cơ sở quan trọng để nước ta tiếp tục phấn đấu thực hiện các mục tiêu 05 năm đã đề ra. “Nhưng năm 2023 cũng là năm có rất nhiều khó khăn, thách thức, cả quốc tế và trong nước”, ông Phương nói. 

Trong đó, thế giới tiếp tục phải đối mặt với rất nhiều các yếu tố rủi ro, bất định, khó khăn, thách thức ngày càng gia tăng. Tăng trưởng kinh tế thế giới dự báo chậm lại, nguy cơ suy thoái gia tăng. Lạm phát tiếp tục cao, có khả năng kéo dài trong trung hạn tại một số quốc gia. Xu hướng phân mảng, khu vực hóa, cạnh tranh kinh tế ngày càng gia tăng. 

Việc điều chỉnh chính sách của các nước lớn trong trung và dài hạn có thể trở thành vòng lặp “thắt chặt – suy thoái”, “nới lỏng – tăng trưởng”, “lạm phát cao – thắt chặt”, khi những vấn đề về xung đột Nga – Ucraina, nguồn cung năng lượng, chuỗi cung ứng, cạnh tranh chiến lược… không thể giải quyết trong ngắn hạn; tiềm ẩn rủi ro đến ổn định thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, lương thực và các vấn đề địa chính trị khu vực, toàn cầu. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, bão lũ, hạn hán… có chiều hướng diễn biến phức tạp, trái quy luật, khó dự báo hơn.

Trong bối cảnh đó, làn sóng dịch chuyển đầu tư, đa dạng hóa, tối ưu hóa chuỗi cung ứng và mạng lưới sản xuất toàn cầu diễn ra mạnh mẽ, cũng là cơ hội để Việt Nam và các nước đang phát triển khác tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong nước, theo ông Phương, nền kinh tế tiếp tục phục hồi, nhưng với độ mở kinh tế lớn, trong khi tính tự chủ của nền kinh tế, năng lực sản xuất trong nước còn khiêm tốn, rủi ro, thách thức tới tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta là rất lớn. Khó khăn, thách thức ngày càng tăng, nhất là áp lực lạm phát, tăng chi phí sản xuất, rủi ro về chuỗi cung ứng; nhu cầu các thị trường xuất khẩu lớn, truyền thống suy yếu; khả năng cạnh tranh, bảo vệ và giữ ổn định thị trường trong nước; điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế, đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu của nước ta; diễn biến bất thường thiên tai, dịch bệnh, bão lũ, an ninh nguồn nước…

Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tham mưu, xây dựng Kế hoạch năm 2023, dự kiến xác định 15 chỉ tiêu phát triển KT - XH, trên cơ sở bám sát các mục tiêu phát triển trong cả giai đoạn 2021-2025, dự báo khả năng đạt được năm 2022, phấn đấu kiểm soát lạm phát ở mức phù hợp để tạo dư địa điều hành tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ và phát triển lao động - việc làm, phát triển các lĩnh vực xã hội, tiếp tục nâng cao đời sống người dân. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, cơ quan và địa phương xác định các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cuối năm 2022 và 12 nhóm nhiệm vụ, giải pháp năm 2023.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Ảnh: Hồ Long

“Trong bối cảnh khó khăn, thách thức nêu trên, càng phải nỗ lực, quyết tâm cao nhất để thực hiện nhanh, hiệu quả, thực chất, toàn diện các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, Chương trình phục hồi và phát triển KT - XH, Chương trình phòng, chống dịch Covid -19 (2022-2023); chủ động ứng phó linh hoạt, kịp thời với các tình huống phát sinh, đồng thời tập trung vừa xử lý các vấn đề tồn đọng, kéo dài, vừa thực hiện hiệu quả các giải pháp căn cơ trong trung và dài hạn để phấn đấu đạt các mục tiêu phát triển 5 năm đề ra; bảo đảm hài hòa, gắn kết chặt chẽ giữa việc thực hiện các giải pháp để vừa phục hồi, thúc đẩy tăng trưởng vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn”, ông Phương nhấn mạnh. 

Đồng thời cần tiếp tục quan tâm, đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội; hỗ trợ kịp thời cho người dân, người lao động, nhất là người nghèo, người thu nhập thấp, đối tượng yếu thế để ổn định và nâng cao đời sống; tiếp tục củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.

Trong tổ chức thực hiện, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư lưu ý, cần theo dõi sát tình hình, chủ động trong công tác dự báo, tham mưu, điều hành; phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài khóa, tiền tệ, thương mại, điều hành giá và các chính sách vĩ mô khác. Phản ứng chính sách nhanh, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, kịp thời, tính đến độ trễ trong xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành, tổ chức thực hiện và thời gian tác động của chính sách.

14h31': GS.Andreas Hauskrecht: Việt Nam nên sử dụng các chính sách tài khóa an toàn

Phát biểu trực tuyến tại phiên toàn thể, chia sẻ tình hình kinh tế tại Hoa Kỳ và đề xuất cho Việt Nam, GS. Andreas Hauskrecht - Đại học Indiana, Hoa Kỳ nêu rõ, việc đánh giá lạm phát do cung hay cầu cần nhìn vào các chỉ số quan trọng, trong đó, lạm phát không liên quan đến chính sách tiền tệ.

Theo GS.Andreas Hauskrecht, một hiện tượng chung được ghi nhận cả ở Hoa Kỳ, châu Âu cũng như Việt Nam là nhiều người rời bỏ thị trường lao động trong giai đoạn dịch Covid-19, và đến nay đang dần trở lại cho thấy, diễn biến của thị trường lao động đang dần ổn định. Trong bối cảnh đó, tại Hoa Kỳ, tốc độ tăng lương cũng ổn định.

Nhìn vào chỉ số dự báo thị trường, chỉ số thị trường tương lai cũng như các chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) dự kiến tăng lãi suất trong những tháng cuối năm 2022 và 2023, GS.Andreas Hauskrecht cho biết, khi FED thay đổi chính sách tiền tệ, khả năng cao FED sẽ tạo suy thoái ở Hoa Kỳ. Điều này cũng tác động đến kinh tế Việt Nam, nhất là tỷ giá VND/ USD. Dự báo đồng Việt Nam sẽ tăng mạnh so với đồng Euro và các đồng tiền khác, khi đó, Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề thanh toán, ảnh hưởng nhất đến giá trị xuất nhập khẩu.

Cũng theo GS.Andreas Hauskrecht, việc thoái đầu tư, thoái vốn ở nhóm trái phiếu mới nổi từ những tháng đầu năm 2022 là vấn đề cần tính đến.

Đánh giá về tình hình kinh tế Việt Nam, GS.Andreas Hauskrecht ghi nhận, Việt Nam đã phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả, dự báo tăng trưởng năm 2022 đạt trên 6%, lạm phát được kiểm soát, nhất là chỉ số lạm phát trọng yếu duy trì ở mức thấp. Trên cơ sở đánh giá tình hình quốc tế và bối cảnh của Việt Nam, GS.Andreas Hauskrecht kiến nghị Việt Nam không nên giảm giá đồng Việt Nam, bởi điều này có thể gây bất ổn tài chính. GS.Andreas Hauskrecht cũng đề xuất, Việt Nam không nên tăng lãi suất hay sử dụng các công cụ tài chính mà nên sử dụng các chính sách tài khóa an toàn.

14h43': Chuyên gia Kinh tế trưởng WB tại Việt Nam Andrea Coppola: Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh tích lũy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

Phát biểu tại Phiên toàn thể, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam Andrea Coppola nêu vấn đề: Qua thống kê, khảo sát, các số liệu cho thấy, trong khi các nước trên thế giới đang quan ngại về tình hình lạm phát, Việt Nam vẫn đang thực hiện linh hoạt các chính sách kinh tế, kiểm soát tốt lạm phát. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam ở mức thấp so với thế giới. GDP tăng trưởng ở mức khả quan. Đặc biệt, cơ cấu kinh tế tương đối hợp lý, tỷ lệ đóng góp của khối ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế khá lớn và không ngừng tăng nhanh trong thời gian gần đây.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam Andrea Coppola phát biểu. Ảnh: Hồ Long

Trong Quý II.2022, khối ngành công nghiệp và dịch vụ có sự tăng trưởng mạnh mẽ, trong đó, ngành kinh doanh nhà hàng, khách sạn có bước tăng trưởng nhảy vọt. Điều này cho thấy nền tảng kinh tế Việt Nam vẫn vững vàng qua hơn 2 năm đại dịch Covid-19 và những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất cũng đang có được đà hồi phục ấn tượng.

Việt Nam đang hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài khóa mang tính hỗ trợ, chính sách tiền tệ linh hoạt và hệ thống ngân hàng được tăng cường. Để đạt được mục tiêu đó, ông Andrea Coppola cho rằng, Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh tích lũy đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiện tại, chính sách quản trị nguồn lực của Việt Nam đang xoay quanh nguồn vốn sản xuất và vốn con người. Trong đó, việc phát triển doanh nghiệp theo hướng năng động, xây dựng hạ tầng bảo đảm hiệu suất hướng đến tích lũy và phát huy vốn sản xuất; việc tích cực nâng cao kỹ năng của người lao động, mở rộng cơ hội việc làm cho mọi người hướng đến làm giàu thêm vốn con người.

Để đạt được bước đột phá, hướng đến phát triển bền vững, ông Andrea Coppola khuyến nghị, cần nhận thức rõ và chú trọng vào vốn thiên nhiên, hướng đến tăng trưởng xanh, đồng thời, cần kịp thời nhập cuộc, đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số để nhanh chóng tăng năng suất.

14h55': Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV Cấn Văn Lực: Xây dựng, vận hành hệ thống chỉ tiêu đánh giá, đo lường khả năng chống chịu và tính tự chủ, tự cường của nền kinh tế

Trong tham luận trình bày tại Phiên toàn thể, TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV nêu rõ, kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn biến động do tác động bất lợi từ cú sốc bên ngoài cũng như những yếu kém nội tại. Việc nâng cao năng lực chống chịu, tính tự cường của nền kinh tế là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh phát triển mới, bởi đây là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ trọng tâm của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tạo tiền đề để xây dựng kinh tế độc lập, tự chủ, giảm phụ thuộc, chi phối bởi các nguồn lực bên ngoài, đồng thời mở rộng không gian phát triển, nâng cao sức cạnh tranh, chất lượng, hiệu quả nội tại của nền kinh tế.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV TS. Cấn Văn Lực phát biểu. Ảnh: Hồ Long

Theo TS. Cấn Văn Lực, năng lực chống chịu và tính tự cường của nền kinh tế Việt Nam ở mức Trung bình - khá, trong đó các chỉ tiêu thể chế và quản trị vĩ mô, chỉ tiêu kinh tế - tài chính đạt điểm số ở mức khá và khá cao, song các chỉ tiêu về môi trường - xã hội hầu hết ở mức thấp và trung bình thấp. Mức độ ảnh hưởng của các cú sốc đến nền kinh tế Việt Nam không quá lớn và Việt Nam có nhiều lợi thế để tăng trưởng, phát triển bền vững. Tuy nhiên, với những diễn biến phức tạp của bối cảnh hiện nay và sắp tới, điều cần lưu ý là, rủi ro luôn đan xen, lan truyền; các chỉ tiêu kinh tế - tài chính có sức chịu đựng trung bình luôn tiềm ẩn nguy cơ chuyển sang trạng thái rủi ro cao hơn (khả năng chống chịu giảm xuống) nếu thiếu các biện pháp kịp thời, hiệu quả.

Để nâng cao khả năng chống chịu, tăng tính tự cường của nền kinh tế Việt Nam, phát huy thuận lợi, cơ hội và hạn chế tối đa rủi ro, thách thức trong quá trình phục hồi, phát triển bền vững, TS. Cấn Văn Lực cho rằng cần xây dựng và vận hành hệ thống chỉ tiêu đánh giá, đo lường khả năng chống chịu và tính tự chủ, tự cường của nền kinh tế; tăng cường phối hợp chính sách nhằm ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, phục hồi và phát triển bền vững. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn; có chiến lược, giải pháp cụ thể nâng cao sức chịu đựng, tính tự chủ, tự cường của nền kinh tế, của các ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp Việt Nam và có kế hoạch cụ thể huy động nguồn lực nhằm hiện thực hóa các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra về sức chống chịu, tính tự chủ và tự cường của nền kinh tế…

15h07': Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Dệt may Việt Nam Lê Tiến Trường: Khi nguồn lực hạn chế cần có trọng tâm ưu tiên 

Tại Phiên toàn thể, nhiều đại biểu đã tham gia trao đổi về khả năng phục hội và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cũng như những khó khăn, vướng mắc trong tiếp nhận các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, nhất là Nghị quyết 43 của Quốc hội, từ góc độ của doanh nghiệp, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Dệt may Việt Nam Lê Tiến Trường cho biết, giai đoạn cuối năm 2021 và 8 tháng năm 2022 cho thấy giai đoạn phát triển tốt và tận dụng cơ hội của ngành dệt may, trong đó hiệu quả quan trọng của các chính sách trong điều tiết vĩ mô. 8 tháng năm 2022, ngành dệt may Việt Nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 31,2 tỷ USD, tăng trưởng hơn 20% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. 

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Dệt may Việt Nam Lê Tiến Trường phát biểu. Ảnh: Hồ Long

Cũng theo ông Lê Tiến Trường, thống kê cho thấy, dệt may có kim ngạch xuất khẩu thứ 4 trong các ngành, nhưng thặng dư thương mại của dệt may luôn đứng thứ nhất. Tuy nhiên, đến giờ phút này, ông Lê Tiến Trường nhận thấy, những dư địa chính sách chúng ta đã thực hiện sớm, đem lại lợi ích cho ngành dệt may và các ngành xuất khẩu khác thì các quốc gia khác cũng đã áp dụng, trong khi đó thị trường thế giới diễn ra một xu thế ngược lại, tức là đột nhiên trở nên “lạnh”. Cầu của thế giới giảm mạnh do kinh tế thế giới suy thoái, biểu hiện suy thoái, lạm phát cao. Nếu trong 8 tháng năm 2022, bình quân mỗi tháng xuất được 3,7 - 3,8 tỷ USD, dự kiến 4 tháng cuối năm chỉ xuất được khoảng 3,1 đến 3,2 tỷ USD.

Ông Lê Tiến Trường kiến nghị về cách tiếp cận chính sách mới trong giai đoạn tới để bảo đảm phát triển của ngành sử dụng nhiều lao động. Theo đó, khi nguồn lực hạn chế cần có trọng tâm ưu tiên. Đối với ngành xuất khẩu phải xuất phát từ hai điểm là thặng dư đem lại xuất siêu cho Việt Nam; khả năng sử dụng lao động và khả năng dẫn đạo để đưa tỷ lệ nội địa cao, tức là phục hồi đơn vị xuất khẩu nhưng kéo theo nhiều đơn vị trong nước khác cũng được phục hồi.

Về chính sách ngắn hạn, ông Lê Tiến Trường cho biết, ngành dệt may đang gặp một số khó khăn, đó là việc sử dụng nguyên liệu nhập khẩu, khi nhập khẩu làm hàng gia công được miễn thuế, nhưng nếu mua hàng hóa trong nước vừa phải nộp thuế VAT, vừa phải chuẩn bị thuế nhập khẩu (bao giờ xuất khẩu mới được hoàn). Vì vậy, 6 tháng đầu năm, tín dụng tăng trưởng tốt lên tới 9,3%, vay được vốn, nhưng tháng 7, tháng 8 tăng trưởng tín dụng ở mức 0,6%; doanh nghiệp tiếp cận vốn rất khó, không vay được tiền để mua nguyên liệu. Nêu thực tế này, ông Lê Tiến Trường đề nghị, đối với việc mua hàng trong nước để làm xuất khẩu, hậu kiểm không cần nộp trước thuế VAT và thuế nhập khẩu để tăng cường khả năng tiêu thụ hàng hóa nội địa. Đối với những ngành hàng còn có đơn hàng, room tín dụng đối với vay ngắn hạn rất quan trọng để doanh nghiệp có thể duy trì, trong khi hiện nay tất cả các khách hàng trên thế giới đều giãn thời gian trả tiền từ 90 ngày lên 120 - 150 ngày…

Về trung hạn, ông Lê Tiến Trường cho rằng, cần đầu tư đổi mới theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Đây là hình thức đầu tư vừa có suất đầu tư lớn và chi phí vận hành cao. Vì thế, các dự án đầu tư theo hướng xanh, nếu tiếp cận theo các chuẩn mực ngân hàng kinh doanh bình thường là những dự án có tỷ suất vốn không cao. Vì vậy, với các ngành xuất khẩu đang đem lại thặng dư tương đối tốt, có nguồn lực lao động lớn, đồng thời giá trị gia tăng ở trong nước đạt trên 50% nên được quan tâm, xem xét riêng biệt để củng cố khu vực này, vừa bảo đảm việc làm, vừa bảo đảm thặng dư và vừa bảo đảm tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới, ông Lê Tiến Trường nói. 

Tham gia thảo luận tại Phiên toàn thể, đánh giá chính sách tài khóa 2022 cũng như giải pháp chính sách cho 2023 và 2025, PGS.TS Vũ Sỹ Cường cho biết, trong bối cảnh 2022, Việt Nam có một loạt chính sách tài khóa được thực hiện chưa có tiền lệ. PGS.TS Vũ Sỹ Cường cho rằng có ba “cái được” trong việc thực hiện các chính sách tài khoá và tiền tệ hỗ trợ. Theo đó, việc hỗ trợ giảm thuế và hỗ trợ tài khóa đã giúp tình hình vĩ mô ổn định; một số gói hỗ trợ liên quan tới việc hỗ trợ doanh nghiệp cũng như hỗ trợ người lao động góp phần cho việc ổn định về kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm. 

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
PGS.TS Vũ Sỹ Cường phát biểu. Ảnh: Hồ Long

Cho rằng trong giai đoạn 2022 - 2025 sẽ có một loạt các vấn đề cần điều chỉnh, PGS.TS Vũ Sỹ Cường nêu rõ, ngoài chính sách hỗ trợ giảm thuế thì các chính sách khác chưa thực sự hiệu quả. Việc triển khai gói hỗ trợ về nhà ở còn hạn chế. Chương trình đầu tư công còn rất chậm sẽ đặt ra thách thức nhất định trong năm tài khóa 2023 - 2025.

Theo PGS. TS. Vũ Sỹ Cường, cần tiếp tục xem xét các chính sách đã thiết kế để điều chỉnh khi cần. Cùng với đó là vai trò giám sát của cơ quan dân cử các cấp như HĐND các cấp và Quốc hội rất quan trọng trong việc đầu tư công.

Về các chính sách tài khóa, PGS.TS Vũ Sỹ Cường cho rằng, nên rút kinh nghiệm từ các chính sách thực tiễn cho thấy, chính sách nào đơn giản, dễ thực hiện và trực tiếp thì hiệu quả rất cao. Dẫn ví dụ cụ thể về trong những chính sách đã trì hoãn để chia sẻ cùng người dân là việc hoãn tăng lương, PGS.TS. Vũ Sỹ Cường cho rằng 2023-2024 cần xem xét tăng lương cho cán bộ, viên chức để tạo ra sự kích thích mới. Đặc biệt, cần xem xét kỹ lưỡng để phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, đồng thời thực hiện các chính sách đơn giản, dễ hiệu quả, dễ thực hiện, phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam như giai đoạn vừa qua.

15h16'Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Thanh Hà: Nhiều công cụ, biện pháp đã được sử dụng để ổn định thị trường tiền tệ

Về công tác điều hành chính sách tiền tệ nói chung của Ngân hàng Nhà nước phải giải bài toán tổng thể, rất nhiều yếu tố. Thứ nhất, mục tiêu quan trọng nhất là đã góp phần kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng phải bảo đảm an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng, bảo đảm thanh khoản cho các thị trường tiền tệ và ngoại hối. Các biến số như lãi suất, tỷ giá cũng đều phải đưa vào trong bài toán tổng thể này.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Thanh Hà chia sẻ tại Diễn đàn. Ảnh: Hồ Long

Thế thì thực tế điều hành như thế nào? Năm 2022 là năm thế giới có rất là nhiều biến động, rất khó lường, rất phức tạp, nhiều biến cố ngoài dự đoán và cũng chưa từng có tiền lệ. Các biến số đó làm cho rủi ro của các nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt là hệ thống tài chính ngân hàng rất lớn. Do vậy lạm phát chính ưu tiên hàng đầu của rất nhiều nền kinh tế, đặc biệt là các nền kinh tế lớn. Để chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương lúc đầu cũng hơi chần chừ do đánh giá rằng lạm phát là do đứt gãy cung ứng và là tạm thời nhưng sau đó vấn đề không đơn giản như thế mà kéo dài dai dẳng. Các ngân hàng Trung ương phải tăng nhanh và tăng sức mạnh lãi suất, dẫn đến nguy cơ thứ hai đó là đình đốn, vừa lạm phát, vừa suy thoái.

Trước bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã gặp rất nhiều khó khăn trong điều hành và thực tế trong hơn 8 tháng qua, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng rất nhiều công cụ, biện pháp để ổn định thị trường tiền tệ, ổn định mặt hàng, lãi suất và cố gắng không để vòng xoáy mất giá đồng nội tệ như nhiều nước, cố gắng giữ giá trị ổn định một cách tương đối của đồng Việt Nam. Tuy nhiên, áp lực lạm phát cũng là lớn và vẫn còn kéo dài. Chúng ta có thể tạm yên khi chỉ số CBIX tạm dừng lại sau khi tăng liên tục trong mấy tháng vừa qua...

Về câu hỏi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, Ngân hàng Nhà nước đã có rất nhiều biện pháp, trong đó có những biện pháp mặc dù là hành chính nhưng rõ ràng đã thể hiện được hiệu quả trong trong ổn định hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối. Có thể thấy, trước năm 2011, tăng trưởng tín dụng ở mức rất cao, trên 30%, có năm gần 54% nhưng trong 10 năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước đã cố gắng điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức khoảng từ 12 - 14%. Rõ ràng ổn định vĩ mô chúng ta đã đạt được trong hơn 10 năm qua...

Vừa qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trực tiếp làm việc với tất cả các tổ chức tín dụng và tất cả các tổ chức tín dụng đều khẳng định phải kiểm soát mức độ tăng trưởng của hệ thống là cần thiết. Hơn hết, đây là một chỉ tiêu an toàn vĩ mô cho chính hoạt động của các tổ chức tín dụng và cũng chưa thể bỏ được trong ngắn hạn.

Như vậy có thể thấy, bài toán tổng thể điều hành tệ gồm rất nhiều yếu tố, rất nhiều mục tiêu nên trong điều hành thì chúng tôi cũng phải cân đối để bảo đảm an toàn của hệ thống cũng như ổn định vĩ mô.

15h22'Nguyên Quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Việt Nam Trương Văn Phước: Phải giữ ổn định tỷ giá cho bằng được 

Vì sao các ngân hàng Trung ương phải tăng lãi suất? Có nhiều nhận định, có nhiều đánh giá khác nhau, nhưng tôi cho rằng có ba mục tiêu chính. Thông thường khi lãi suất tăng lên tức là giá tiền tệ tăng lên thì cầu giảm và đó là điều mong muốn để hạ bớt cầu về tín dụng ở các quốc gia đang có lạm phát cao. Thứ hai là làm dịu bớt một thị trường lao động hết sức là nóng.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Nguyên Quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Việt Nam Trương Văn Phước chia sẻ tại Diễn đàn. Ảnh: Hồ Long

Sau đại dịch Covid-19 thì các nước sử dụng biện pháp là tăng tiền lương để kéo lao động vào. Khi đã tăng tiền lương để giúp cho người công nhân chống lại lạm phát thì lại rơi vào một hiệu ứng của kinh tế học vô cùng nan giải đối với các ngân hàng Trung ương hiện nay, tức là, giá tăng làm cho tiền lương tăng, tiền lương tăng thì làm cho giá tăng. Đó là lý do vì sao chúng ta biết là cách đây 2 hôm, chỉ số về lạm phát của Mỹ đã giảm xuống nhưng đó là tỷ số lạm phát tổng quát (8,3%). Nhưng trừ lương thực và năng lượng ra thì lạm phát lại tăng lên. Đây là bài toán nan giải mà Mỹ đang cần phải xử lý. 

Vấn đề thứ ba nữa là tăng lãi suất suy cho cùng là làm cho đồng nội tệ tăng lên. Chúng ta đều biết là lãi suất tăng lên thì tỷ giá phải giảm xuống. Muốn cho đồng Việt Nam tăng giá, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chỉ tăng lãi suất lên là đồng Việt Nam sẽ tăng giá, USD sẽ giảm giá. Chính vì vậy, việc sử dụng lãi suất là một điều rất quan trọng. Tôi cho rằng, lãi suất Việt Nam cố gắng ổn định là tốt nhất. 

Ngày trước khi tình hình lạm phát rất thấp là chính sách tiền tệ của ta phải hạ lãi suất nhưng mà không hạ lãi suất được. Bây giờ lạm phát tăng cao sao hạ lãi suất được? Nhưng nếu tăng lãi suất thì chúng ta đều biết rồi, lãi suất doanh nghiệp trừ đi lạm phát kỳ vọng thì tạo ra lãi suất thực và vẫn còn cao. Cho nên, tôi nghĩ rằng Ngân hàng Nhà nước nên tăng trần lãi suất huy động để có thể tạo nên một điểm đến đổi tiền tệ giữa đồng Việt Nam và đồng USD. 

Vấn đề thứ hai là về tỷ giá sẽ như thế nào? Như tôi phân tích, Việt Nam phải giữ cho bằng được ổn định tỷ giá. Đây là một phòng tuyến, ta gọi là “phòng tuyến sông Cầu”, nếu vỡ “phòng tuyến” này thì coi như lạm phát sẽ tràn vào và vấn đề này thì tôi cũng có khuyến nghị với Chính phủ rất nhiều lần. Có thể nói, thời gian vừa rồi Ngân hàng Nhà nước làm rất tốt, bằng việc giữ tỷ giá trung tâm ở khoảng 0,6 và cho thị trường lao động trong một biên độ cộng trừ 3% thì sự lan truyền của lạm phát ở Việt Nam sẽ bị ngưng lại bởi phòng tuyến trị giá này. Nếu chúng ta vỡ phòng tuyến tỷ giá này thì lạm phát vô cùng khó khăn. 

Ngân hàng Nhà nước đứng trước 2 khó khăn, nếu ổn định tỷ giá thì phải can thiệp, mà can thiệp trong bối cảnh xuất khẩu cũng không phải là dễ dàng thì làm sao để hóa giải được vấn đề này? Theo tôi, Ngân hàng Nhà nước nên nghiên cứu để mở rộng đối tượng cho vay ngoại tệ xem như là cầu về ngoại hối hiện nay sẽ di chuyển vào trong tương lai. Sẽ có câu hỏi là vì sao chúng ta đang chống USD hóa mà lại hỗ trợ cho việc cho vay ngoại tệ. Tôi nghĩ đây là vấn đề cân nhắc và với sự đánh đổi đó là hết sức cần thiết cho Việt Nam của chúng ta. 

Vấn đề thứ ba là cung ứng tiền. Có thể nói rằng, các ngân hàng Trung ương các nước theo thể chế điều hành tiền tệ của mình tăng lãi suất để hạn chế cung tiền. Việt Nam không tăng lãi suất mà vẫn kiểm soát được cung tiền là vì sao? Vì chúng ta có hạn mức tín dụng. Ở khía cạnh này, hạn mức tín dụng là một điều gây nên rất nhiều tranh cãi nhưng theo tôi, hạ mức tín dụng cần phải được duy trì trong một thời gian nữa, chừng nào chúng ta có thể ổn định được lạm phát và thế giới ổn định lạm phát. Chúng ta không cần tăng lãi suất mà kiểm soát được cung tiền vì ta có công cụ đó là hạn mức tín dụng. Đây là một yếu tố rất căn bản mà chúng ta sử dụng vào cơ chế quản lý hạn mức tín dụng...

Về chính sách tài khóa, phải giải quyết 4 vấn đề để hỗ trợ cho chính sách tiền tệ trong mục tiêu để chống lạm phát. Đó là đầu tư công; thực hiện nhanh, có hiệu quả các gói hỗ trợ; sử dụng các loại thuế để có thể kiểm soát giá, tức là kiểm soát lạm pháp. Cuối cùng, điều rất mừng là ngày 16.9 vừa rồi, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế. Đây là một trong những "đòn" giải vây cho chính sách tiền tệ. Vì nếu như chúng ta huy động được vốn, sẽ vừa hút tiền trong lưu thông và chống lạm phát lại giúp cho doanh nghiệp cơ cấu lại nợ. Tôi cho rằng, với sự phối hợp nhịp nhàng của chính sách tài khóa và tiền tệ thì những mục tiêu kinh tế vĩ mô có thể đạt được.

15h36'Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi: Linh hoạt ứng phó với các tình huống

Trả lời câu hỏi về định hướng chính sách của Bộ Tài chính, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết, tác động của đại dịch cũng như những xung đột chính trị quốc tế gây ảnh hưởng nhiều mặt với nền kinh tế Việt Nam, gây đứt gãy chuỗi cung ứng, bất ổn thị trường lao động, tăng giá nguyên liệu đầu vào. Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong ổn định sản xuất kinh doanh.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi chia sẻ tại Diễn đàn. Ảnh: Hồ Long

Trước tình hình đó, Quốc hội, Chính phủ sử dụng linh hoạt, hiệu quả chính sách tài khóa trong thời gian vừa qua. Thứ trưởng Bộ Tài chính nêu rõ, các chính sách miễn giảm, hoãn thuế đã có tác động trực tiếp đối với tình hình kinh tế, đời sống người dân. Nhiều chính sách tài khóa như gói chính sách tài chính hỗ trợ người lao động thuê nhà, gói hỗ trợ doanh nghiệp được triển khai đem lại hiệu ứng tích cực.

Vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có quyết sách đưa thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu xuống mức sàn, thay đổi này tạo ảnh hưởng nhanh chóng, được cử tri và nhân dân hưởng ứng. Chính sách này còn được tiếp tục thực hiện đến 31.12. Quốc hội, Chính phủ cũng đã có những quyết sách quan trọng, tạo điều kiện mở rộng nguồn cung, sẵn sàng cho các biến cố trong tình hình thế giới khó khăn, đảm bảo nguồn cung xăng dầu cho nền kinh tế.

Bên cạnh đó, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Tài chính tiếp tục nghiên cứu các chính sách thuế về thuế bảo vệ môi trường, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt để trình Quốc hội trong Kỳ họp sắp tới, để có công cụ linh hoạt ứng phó với các tình huống giá năng lượng, xăng dầu biến động mạnh mẽ, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân. Bộ Tài chính đã sẵn sàng nghiên cứu kỹ lưỡng, chủ động trong các giải pháp tài khóa, để có các phương án, kịch bản đa dạng ứng phó với tất cả các tình huống, đúng như phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” như Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã nêu.

15h50'Chuyên gia chính xếp hạng tín nhiệm Quốc gia Việt Nam thuộc Moody’s Nishad Majmudar: Đà tăng trưởng của Việt Nam vẫn sẽ tiếp diễn

Đánh giá về triển vọng phát triển kinh tế ổn định của Việt Nam, Chuyên gia chính xếp hạng tín nhiệm Quốc gia Việt Nam thuộc Moody’s Nishad Majmudar nhận định, nền kinh tế Việt Nam cũng như xuất khẩu quốc gia đang ngày càng trở nên mạnh mẽ dù thế giới đã và đang phải trải qua nhiều cú sốc về kinh tế như đại dịch Covid-19, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc và gần đây nhất là xung đột quân sự giữa giữa Nga và Ukraine nhưng FDI vẫn liên tục "chảy" vào nhiều ngành nghề của Việt Nam bất chấp sự kiện nêu trên, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất. Chuyên gia Nishad Majmudar kỳ vọng rằng, đà tăng trưởng của Việt Nam vẫn sẽ tiếp diễn bất chấp thế giới và nền tài chính toàn cầu đang trải qua giai đoạn suy giảm.

Bên cạnh đó, chuyên gia tài chính xếp hạng tín nhiệm Quốc gia Việt Nam cũng đánh giá cao hiệu quả của chính sách tài khóa của Việt Nam, đặc biệt là chính sách quản lý nợ mang tầm nhìn xa của Chính phủ. Điều này bao gồm việc giảm tỷ trọng các khoản vay nước ngoài và chuyển dịch sang vay thương mại nội địa sử dụng Việt Nam đồng. Qua đó góp phần làm giảm áp lực tổng vay nợ cho Chính phủ, đồng thời làm giảm rủi ro tái cấp vốn theo thời gian. Cụ thể, khi Việt Nam đang tác hại trong tăng thu nhập quốc gia đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ có ít quyền tiếp cận hơn đối với các khoản vay ưu đãi từ các quốc gia có quan hệ song phương hoặc đa phương.

Ngoài ra, nhắc đến sức mạnh tài khoá, Chuyên gia Nishad Majmudar chỉ ra rằng, bất chấp những sự kiện không có lợi diễn ra trên toàn thế giới, bao gồm đại dịch Covid-19, Chính phủ Việt Nam vẫn có thể duy trì lập trường tài khóa khôn khéo, bao gồm duy trì thâm hụt tài khóa ở mức vừa phải cũng như duy trì mức độ nợ định. So với các quốc gia khác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, không gian tài khoá của Việt Nam còn khá lớn nên trong trường hợp các cú sốc kinh tế bất ngờ xảy đến, Chính phủ vẫn có dư địa để đưa ra các gói kích thích kinh tế. Nhìn về tương lai có thể thấy vẫn còn nhiều sự kiện không thuận lợi liên quan đến vấn đề suy giảm kinh tế toàn cầu.

Chuyên gia Nishad Majmudar cho biết, hiện tại đang đánh giá lại mức tăng trưởng cho năm 2022 và cả năm 2023 của thị trường Mỹ, Trung Quốc và các nền kinh tế lớn thuộc châu Âu. Đây là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nên  Chuyên gia Nishad Majmudar nhận định rằng Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng ở mức độ nhất định, đặc biệt là trong khối lượng xuất khẩu. Tuy nhiên, thị trường nội địa của Việt Nam đã mở cửa trở lại và các du khách đã bắt đầu đến Việt Nam. Chính vì vậy, thâm hụt về xuất khẩu của Việt Nam có thể được bù đắp bởi các ngành dịch vụ và sự phục hồi của kinh tế nội địa. Điều này vô hình trung sẽ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

14h06'Nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), TS. Võ Trí Thành: Việt Nam đã có lựa chọn khác...

Việc lựa chọn chính sách tiền tệ và tài khóa trong trạng thái kinh tế lạm phát cao, rủi ro vĩ mô lớn, sản xuất đình trệ là rất phức tạp, khó khăn thách thức. Nhà hoạch định chính sách đứng trước cả hai nguy cơ lạm phát và suy thoái. Phần lớn các nước đã lựa chọn hy sinh tăng trưởng để kìm hãm lạm phát bằng các biện pháp thắt chặt, tăng lãi suất. Trong tình hình này, Việt Nam đã có lựa chọn khác, vừa thúc đẩy phục hồi, vừa ổn định kinh tế vĩ mô.

TRỰC TIẾP: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), TS. Võ Trí Thành. Ảnh: Hồ Long

Lựa chọn này có cơ sở là cuối năm 2021, vị thế tài khóa ngân sách của Việt Nam tương đối tốt, thâm hụt, tỷ lệ nợ công của Việt Nam ở mức khả quan. Do vậy, Việt Nam đã quyết định dựa nhiều vào chính sách tài khóa, ngay cả việc hỗ trợ 2% thuế giá trị gia tăng, nguồn tiền hỗ trợ đều nhờ ngân sách, chưa cần dùng đến chính sách tiền tệ. Việc lựa chọn này là hợp lý, do chính sách tài khóa khi ít gây áp lực cho lạm phát hơn, đồng thời cũng có dư địa lớn hơn so với chính sách tiền tệ. Việc tập trung vào chính sách tài khóa cũng đã tạo dư địa cho chính sách tiền tệ để ứng phó với những rủi ro, bất định. Kết quả của lựa chọn chính xác này là khi tình hình quốc tế có biến động mạnh, tình hình tài khóa của nước ta vẫn vững vàng, thu ngân sách 8 tháng qua tăng cao, chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện nới tài khóa, cẩn thận và linh hoạt với chính sách tiền tệ.

Về chính sách tiền tệ, TS.Võ Trí Thành cho rằng, con số 14% là hợp lý về cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Nếu nới lỏng hơn thì áp lực lên tỷ giá còn lớn, gây áp lực lên lãi suất, tạo nguy cơ chảy máu vốn. Tăng tín dụng của Việt Nam lên 14% không phải quá nới lỏng, nhưng cũng không phải thắt chặt, tỷ lệ tín dụng trên GDP là 124%, mức rất rủi ro, nhưng các hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã tăng vốn để bảo đảm an toàn. Đó sẽ là cơ sở để tính toán mức tăng tín dụng hợp lý. Bởi vậy, TS.Võ Trí Thành cho rằng cần vận dụng chính sách tiền tệ linh hoạt hơn nữa, tập trung vào sản xuất kinh doanh, hạn chế các lĩnh vực rủi ro, kiểm soát chặt chẽ phần đầu tư cho trung, dài hạn để bổ sung cho một số lĩnh vực kinh doanh phù hợp tùy theo chu kỳ kinh doanh của ngành.

16h35'Chủ tịch Hiệp hội Các nhà thầu xây dựng Việt Nam Nguyễn Quốc Hiệp: Đề nghị xem xét 3 đề xuất

TỔNG THUẬT: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0
Chủ tịch Hiệp hội Các nhà thầu xây dựng Việt Nam Nguyễn Quốc Hiệp phát biểu

Đề nghị đề nghị Ủy ban Kinh tế của Quốc hội xem xét 3 đề xuất:

Thứ nhất, cần điều chỉnh lại các định mức chưa hợp lý so với thiết kế, thi công hiện tại; hướng dẫn, kiểm tra công bố giá cả máy, giá nhân công của các địa phương cho phù hợp, sát với mặt bằng giá thị trường và bổ sung ngay các định mức chuyên ngành giao thông vào hệ thống định mức xây dựng làm cơ sở áp dụng.

Thứ hai, triệt để tinh giản các thủ tục hành chính, đặc biệt các thủ tục thanh quyết toán, các phần việc phát sinh bằng việc kiểm tra, giám sát chặt chẽ, có ghi địa chỉ chịu trách nhiệm trong công tác giải ngân.

Thứ ba, sớm có cơ chế bảo vệ quyền bình đẳng cho các nhà thầu xây dựng trong cơ chế hợp đồng, tránh tình trạng nợ đọng triền miên...

Giải đáp đề xuất này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, ngày 17.9, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức hội nghị về các giải pháp đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình trọng điểm quốc gia. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cũng tiến hành giám sát, khảo sát. Trong đó, đối với đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông đến nay vẫn còn một số đoạn chưa giải phóng mặt bằng, một số các công trình hạ tầng kỹ thuật chưa bàn giao cho nhà thầu, khối lượng giải ngân đạt trên 50%, chậm so với tiến độ đề ra.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó có nguyên nhân công tác giải phóng mặt bằng, định mức đơn giá kỹ thuật lạc hậu, giá nguyên vật liệu tăng cao, có những nguyên vật liệt tăng tới 20-25%. Ủy ban Kinh tế đã đề nghị Bộ Giao thông - Vận tải báo cáo tổng hợp về sự biến động của giá nguyên vật liệu để có giải pháp không ảnh hưởng đến tiến độ thi công dự án. Tuy nhiên, trong những vướng mắc cũng có trách nhiệm của các đơn vị tư vấn, giám sát, trách nhiệm của các nhà thầu, chủ đầu tư trong việc tư vấn điều tra, khảo sát vẫn chưa quan tâm sát sao…

ĐBND

TỔNG THUẬT: Tọa đàm cấp cao “Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phục hồi và phát triển bền vững” -0

#