TỔNG THUẬT: Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội

- Chủ Nhật, 18/09/2022, 09:00 - Chia sẻ

* Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn tham dự Hội thảo chuyên đề 1 với nội dung: “Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội”.

Sáng nay, 18.9, ngay sau khai mạc Diễn đàn, dưới sự điều hành của Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh và Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong đã diễn ra Hội thảo chuyên đề 1 với nội dung: “Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội”.

TỔNG THUẬT: Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. -0
Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn; Uỷ viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng; Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định dự Phiên Hội thảo chuyên đề. Ảnh: Hồ Long

Tham dự Hội thảo có: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn; Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng.

Cùng dự có các Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định; Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng; Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga; Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Hải Hà; Chủ nhiệm Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh; Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới; Trưởng ban Công tác đại biểu, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Thị Thanh; Trưởng ban Dân nguyện Dương Thanh Bình; Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà; đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương…

Tại Hội thảo chuyên đề 1, các đại biểu nghe Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng trình bày chuyên đề “Nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật - Giải pháp quan trọng trong cải cách thể chế”; GS.TS Hoàng Văn Cường - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân trình bày tham luận “Tác động của chính sách đất đai đến thị trường bất động sản - Giải quyết bất cập trong đấu giá đất”; GS. TSKH Đặng Hùng Võ - nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trình bày tham luận “Hoàn thiện chính sách đất đai để phù hợp với ngữ cảnh mới”...

9h10': Mở đầu Hội thảo, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng trình bày chuyên đề Nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật - Giải pháp quan trọng trong cải cách thể chế.

TRỰC TIẾP: Hội thảo chuyên đề 1 Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022 -0
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng trình bày chuyên đề tại Hội thảo. Ảnh: Hồ Long

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là một trong ba khâu đột phá

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng, đối với Việt Nam, cải cách và hoàn thiện thể chế luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng trong quá trình đổi mới đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định “Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 được Đại hội Đảng lần thứ XI thông qua cũng chỉ rõ: “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính” là một trong ba khâu đột phá. Từ đó đến nay, việc cải cách, hoàn thiện thể chế luôn được xem là một trong những nội dung trọng yếu trong định hướng phát triển đất nước. Trong ba đột phá chiến lược phát triển bền vững đất nước được xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển tiếp tục được đặt ở vị trí đầu tiên.

Trên cơ sở khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra yêu cầu cần đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế phát triển, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, đẩy mạnh cải cách thể chế để góp phần thực hiện tốt các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ đề ra nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Trong đó, lấy cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển đất nước.

Để xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhằm tạo lập khung khổ pháp lý thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, 12 định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản. Đó là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh…; tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường…; tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp…

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức.

Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới… Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội… Tăng cường năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế... Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp.

Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật.

Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành…

Xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật là trọng tâm cải cách, hoàn thiện thể chế

Trước bối cảnh và những yêu cầu này, Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị và Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XV (2021-2026) xác định mục tiêu công tác lập pháp của Quốc hội nhiệm kỳ Khóa XV là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, tạo lập khung khổ pháp lý để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, gắn với 12 định hướng phát triển đất nước, 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược được đề ra tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

TRỰC TIẾP: Hội thảo chuyên đề 1 Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022 -0
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng trình bày chuyên đề tại Hội thảo. Ảnh: Hồ Long

Tập trung thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đồng bộ các chủ trương, đường lối được xác định tại các văn kiện Đại hội XIII để hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch, có sức cạnh tranh quốc tế; lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm; tăng cường giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước; thúc đẩy đổi mới sáng tạo mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển đất nước nhanh, bền vững. 

Để tổ chức thực hiện có hiệu quả mục tiêu nói trên, Chủ nhiệm Hoàng Thanh Tùng cho rằng cần tiếp tục quyết liệt đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác xây dựng và thi hành pháp luật, tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau.

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về vai trò của công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật, sự đổi mới về tư duy, nhận thức, phương pháp tiếp cận của các chủ thể tham gia vào công tác xây dựng pháp luật, nhất là người đứng đầu, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở tạo nên những chuyển biến mang tính bứt phá đối với công tác này.

Theo đó, cần thống nhất và nâng cao nhận thức về vai trò, ý nghĩa của xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật không chỉ trong việc tạo lập khuôn khổ pháp lý phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại mà còn phải phúc đáp kịp thời yêu cầu cấp bách của thực tiễn, tạo sự bứt phá về phát triển kinh tế - xã hội. Việc xây dựng, ban hành luật phải thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tiến độ nhưng cũng cần đáp ứng yêu cầu cao về chất lượng, không chạy theo số lượng; trong nội dung các văn bản, cần đặc biệt lưu ý tiếp tục cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, rà soát, loại bỏ các quy định không cần thiết, không hợp lý, cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân. 

Thứ hai, tăng cường năng lực cho các chủ thể tham gia công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, nhất là đổi mới phương thức thảo luận, cho ý kiến về các dự án luật. Tiếp tục triển khai, đồng thời, tổng kết, đánh giá về cách thức tổ chức kỳ họp Quốc hội chia làm hai đợt để có khoảng thời gian giữa hai đợt dành cho công tác nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật, bảo đảm chất lượng văn bản được Quốc hội thông qua.

Bên cạnh đó, tổ chức hiệu quả và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Đổi mới mạnh mẽ về cách thức, phương thức thẩm tra; nâng cao hơn nữa chất lượng nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số trong các hoạt động này; tiếp tục tăng cường tham vấn, sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học trong hoạt động thẩm tra; phát huy trí tuệ của các thành viên Hội đồng, Ủy ban; tổ chức tốt hơn hoạt động phối hợp thẩm tra giữa các cơ quan của Quốc hội; tăng cường hoạt động giám sát, giải trình gắn với công tác lập pháp, thông qua đó kịp thời phát hiện những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo để kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung; tăng cường hơn nữa công tác bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật.

Cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong hoạt động phản biện xã hội, tham gia ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Tiếp tục thu hút các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ hoạt động thực tiễn có kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn sâu tham gia trong công tác xây dựng pháp luật. Tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm thời gian, phương thức phù hợp, hiệu quả để lấy ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo văn bản và Nhân dân. Bảo đảm tiếp thu, giải trình nghiêm túc, đầy đủ đối với các ý kiến tham gia trong quá trình chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản; xây dựng, hoàn thiện cơ chế đánh giá hiệu quả thi hành luật, cơ chế tiếp nhận, xử lý thông tin phản hồi của công dân, doanh nghiệp đối với công tác lập pháp.

Tiếp tục kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy giúp việc Quốc hội, đội ngũ cán bộ tham gia làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật tại Bộ, ngành, cơ quan, nhất là đội ngũ cán bộ pháp chế theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại; thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp, cập nhật kiến thức chuyên môn và thực tiễn.

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu cải tiến quy trình lập pháp, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng pháp luật. Cụ thể nghiên cứu cải tiến quy trình xây dựng pháp luật theo hướng phân công, phân nhiệm hợp lý, rõ ràng và phát huy tối đa khả năng, nâng cao trách nhiệm của từng chủ thể trong quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, nhất là của cơ quan trình, cơ quan chủ trì soạn thảo dự án. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác xây dựng pháp luật.

Thứ tư, tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, cá nhân đại biểu Quốc hội, nhất là giám sát đối với công tác tổ chức thi hành pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời yêu cầu Chính phủ, các cơ quan liên quan khẩn trương đề xuất sửa đổi, bổ sung văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết có phát sinh vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành.

Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, tăng cường hướng dẫn thi hành pháp luật, giải thích pháp luật theo hướng tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật theo lĩnh vực, theo chuyên đề, theo định kỳ để từ đó đưa ra cơ sở thực tiễn cho hoàn thiện pháp luật tương ứng; kịp thời hướng dẫn thi hành, áp dụng pháp luật, đặc biệt đối với việc thi hành các quy định pháp luật mới, bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất trong cả nước; tăng cường giải thích pháp luật đối với những vấn đề pháp luật vướng mắc trong thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật.

Đối với các văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết, định kỳ 5 năm tiến hành sơ kết, 10 năm tiến hành tổng kết việc thi hành; trường hợp phát hiện có mâu thuẫn, chồng chéo hoặc nội dung không còn phù hợp với thực tiễn thì kịp thời đề xuất Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Đối với những bất cập, vướng mắc thuộc công tác triển khai thi hành thì chỉ đạo chấn chỉnh, thực hiện nghiêm theo quy định của pháp luật để kịp thời khắc phục.

Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật để phát hiện những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn, qua đó, khẩn trương xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu khai thông điểm nghẽn, hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.

Như vậy có thể thấy, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật là yêu cầu tất yếu, khách quan trong quá trình phát triển đất nước. Việc triển khai một cách sáng tạo, quyết liệt và đúng hướng những cải tiến, đổi mới trong công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật trong giai đoạn vừa qua, đồng thời, tiếp tục thực hiện một cách đồng bộ những giải pháp tăng cường công tác này trong thời gian tới đã và sẽ là những nhân tố tích cực, có tính quyết định để hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Đồng thời qua đó nâng cao tính chuyên nghiệp, tính khoa học, hiệu quả, bảo đảm tính kịp thời và khả thi của công tác xây dựng và thi hành pháp luật, phúc đáp yêu cầu của tình hình mới và thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.

9h20': GS.TS Hoàng Văn Cường: Nhà nước phải thực hiện thu hồi đất, không nên để nhà đầu tư tự thỏa thuận

TRỰC TIẾP: Hội thảo chuyên đề 1 Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022 -0
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân, GS.TS Hoàng Văn Cường trình bày tham luận tại Hội thảo. Ảnh: Hồ Long

Trong tham luận trình bày tại Hội thảo, GS.TS Hoàng Văn Cường – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế quốc dân tập trung phân tích mối quan hệ giữa chính sách đất đai với bất động sản, từ đó xem xét có cần phải điều chỉnh các chính sách, pháp luật về đất đai liên quan đến bất động sản, hướng tới Quốc hội sẽ thảo luận về dự án Luật Đất đai (sửa đổi) và dự án Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) trong thời gian tới. 

Tham luận tập trung làm rõ 5 vấn đề về: Chuyển đổi mục đích sử dụng đất sẽ tác động như thế nào đến giá trị bất động sản và những hành vi đầu tư; làm thế nào để biết lợi ích sinh ra khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất để hoạt động đầu tư bất động sản lành mạnh; thời hạn sử dụng đất có tác động gì đến hành vi đầu tư bất động sản và thời hạn sử dụng đất nên được xác định như thế nào để quản lý các bất động sản phù hợp hơn; giá trị gia tăng của đất đai có ảnh hưởng như nào đến đầu cơ bất động sản và giải pháp điều tiết giá trị gia tăng, hướng tới giải pháp lành mạnh hóa thị trường; hoạt động về giao dịch bất động sản, đất đai nói chung nên được thực hiện qua sàn và nên có sự thay thế giao dịch bất động sản hiện nay hình thành trong tương lai cho một hình thức mới để lành mạnh hơn thị trường bất động sản. 

Theo GS.TS Hoàng Văn Cường, khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chính là việc chúng ta làm đất đai tự sinh lợi và đây chính là địa tô chênh lệch. Nói cách khác, khi Nhà nước ra quyết định cho phép một nhà đầu tư chuyển mục đích sử dụng đất từ loại đất này sang loại đất khác, đồng nghĩa Nhà nước đã quyết định chuyển địa tô thành giá trị của bất động sản cho chính nhà đầu tư đó. Chính vì vậy, đã làm nảy sinh những vấn đề bất cập trong thực tế. Ví dụ như bất bình đẳng giữa những nhà đầu tư được Nhà nước quyết định cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất với những nhà đầu tư phải tự chuyển nhượng đất đai trên thị trường, hoặc giữa người dân đang sử dụng đất nông nghiệp với chủ đầu tư sau khi được giao đất nông nghiệp để chuyển thành đất ở, hoặc giữa quá trình cổ phần hóa khi cổ phần hóa mà đất không phải là đất dịch vụ, đất ở. Thế nhưng, chỉ cần cổ phần hóa xong, doanh nghiệp đi xin chuyển mục đích, thì ngay lập tức đất đó trở thành yếu tố nguồn lợi, và những bất cập này đòi hỏi cần có sự điều tiết để tránh mâu thuẫn như hiện nay. 

Để điều tiết vấn đề này, GS.TS Hoàng Văn Cường đề xuất, gợi mở ba giải pháp. Một là, phải định ra được giá trị của mỗi loại đất đai gắn liền với mục đích sử dụng. Thực tế cho thấy, mỗi loại “mũ” sử dụng sẽ có giá trị tương ứng, và ở đây “chúng ta chỉ có thể định giá được là giá trị của nó sát với giá trị thị trường”. Bởi lẽ, giá trị của đất đai có thể dùng các kỹ thuật để định giá được, nhưng giá cả từng mảnh đất cụ thể trên thực tế lại do người mua, người bán trên thị trường tự quyết định, người nào rất muốn mua thì họ sẵn sàng trả giá cao hơn, hoặc người đang cần bán thì họ sẵn sàng đưa ra giá thấp hơn. Như thế để thấy rằng, giá cả thị trường là “muôn hình vạn trạng”. Chính vì vậy, “chúng tôi đề nghị trong luật pháp phải xác định rõ, định giá đất hay bảng giá đất phải sát với giá trị thị trường của đất đai, chứ không phải là giá thị trường. Nếu giá thị trường là vấn đề không thể nắm bắt được, thì đề nghị Nhà nước phải thực hiện thu hồi đất cho tất cả các trường hợp Nhà nước phê duyệt các dự án đầu tư, hoặc Nhà nước chấp nhận đầu tư, chứ không nên để các nhà đầu tư tự thỏa thuận”, GS.TS Hoàng Văn Cường nêu rõ.

Lý lẽ, theo GS.TS Hoàng Văn Cường, bởi khi Nhà nước thu hồi, Nhà nước sẽ đền bù cho người có đất bị thu hồi và giá trị tương ứng đúng với mục đích đất họ đang sử dụng; khi giao đất cho nhà đầu tư, Nhà nước sẽ thu tiền sử dụng đất tương ứng với giá trị đất đai được giao để nhà đầu tư đầu tư để phát triển. Trả lời câu hỏi phương thức tự thỏa thuận sẽ được áp dụng ở đâu, theo GS.TS Hoàng Văn Cường, “chỉ nên áp dụng cho hai trường hợp: Một là, người dân đóng góp đất đai để trở thành các cổ phần cùng đầu tư kinh doanh với doanh nghiệp - trong trường hợp này, chúng ta sẽ thực hiện thỏa thuận; hai là người dân sẽ tự thỏa thuận với nhau để thực hiện cơ chế chuyển đổi đất đai…

Liên quan đến đấu giá quyền sử dụng đất và đấu giá đất để xác định được giá trị của nhà đầu tư phải nộp cho Nhà nước, GS. TS Hoàng Văn Cường nêu rõ, mục tiêu của đấu giá đất hay đấu giá quyền sử dụng đất đều nhằm lựa chọn các nhà đầu tư nào sử dụng đất hợp lý nhất. Nếu một mảnh đất đã được xác định mục đích cụ thể, rõ ràng rồi, thì bất kể người nào vào cũng phải hoạt động, cũng phải đầu tư như thế, không có phương án nào khác - trong trường hợp này, người sử dụng hợp lý nhất chính là người mang lại nhiều tiền nhất. Chính vì vậy, trong trường hợp này, phương thức đấu giá quyền sử dụng đất được sử dụng đối với những vùng đất hay khu vực đất chưa được xác định mục tiêu, mục đích cụ thể. Theo đó, trong trường hợp này, chúng ta lựa chọn nhà đầu tư nào sử dụng mảnh đất mang lại lợi ích về mặt kinh tế, xã hội, môi trường cao nhất, chứ không phải chỉ là giá đất cao nhất. Và, giá tiền đất nhà đầu tư nộp chỉ là cam kết ban đầu, còn sau khi nhà đầu tư đầu tư xong, giá trị gia tăng trên đất đó, chúng ta sẽ phải thực hiện biện pháp, chính sách điều tiết giá trị gia tăng của đất đai, chứ không phải thông qua các hoạt động đấu thầu dự án sử dụng đất, GS.TS Hoàng Văn Cường nói. 

Với vấn đề trả giá cao đặt ra trong thời gian vừa qua, theo GS.TS Hoàng Văn Cường “chúng ta hoàn toàn có thể xử lý một cách rất dễ dàng”, bởi nếu chúng ta định giá khởi điểm sát với giá trị thị trường, thì khi có hiện tượng trả giá cao hay không chúng ta sẽ phát hiện ngay để cảnh báo và ngăn chặn. Nhưng quan trọng hơn, đó là phải lựa chọn được những người tham gia đấu giá có đủ năng lực về mặt tài chính để bảo đảm rằng khả năng thanh toán cho tài sản đấu giá đó là đất đai và phải chứng minh được khả năng tài chính này bằng lượng tiền của “anh” bỏ vào tài khoản đóng ở ngân hàng, hoặc được ngân hàng bảo lãnh cho giá trị thanh toán của toàn bộ giá trị đất đai đó. Như vậy, chúng ta không cần phải thế chấp, chỉ cần có được các tài sản bảo đảm. “Nếu anh vi phạm thì Nhà nước có thể thu hồi toàn bộ giá trị của tài sản bảo đảm đó, chứ không phải chỉ là phần về tài sản thế chấp”, GS.TS Hoàng Văn Cường nêu rõ. 

9h34': GS.TSKH Đặng Hùng Võ – nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường: Cần làm rõ giá trị giá đất thị trường

Tại Phiên Hội thảo chuyên đề, các đại biểu đã nghe GS.TSKH Đặng Hùng Võ – nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trình bày tham luận “Hoàn thiện chính sách đất đai phù hợp với ngữ cảnh mới”.

TRỰC TIẾP: Hội thảo chuyên đề 1 Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022 -0
Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, GS.TSKH Đặng Hùng Võ trình bày tham luận. Ảnh Hồ Long

Theo đó, tham luận tập trung đánh giá về quá trình 10 năm thi hành Luật Đất đai 2013 và so với dự thảo Luật Đất đai sửa đổi; Những vấn đề về đổi mới hệ thống tài chính đất đai; Vấn đề cải cách hệ thống thuế sử dụng đất hay thuế bất động sản hoặc tài sản; Mở rộng cơ chế thế chấp của các dự án đầu tư, cho phép thế chấp có kiểm soát tại các tổ chức tài chính nước ngoài; Nội hàm của dự án phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; Đấu giá đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất và giao, cho thuê theo chỉ định.

GS.TSKH Đặng Hùng Võ cho rằng, Luật Đất đai 2013 có chủ trương chủ đạo về cơ chế Nhà nước thu hồi đất theo quy hoạch, từ đó đưa đất ra đấu giá để có thể thu tiền sử dụng và tiền thuê đất nhiều hơn cho Nhà nước. Tuy nhiên đến nay, việc thực hiện cơ chế thu hồi đất theo quy hoạch để đưa đất ra đấu giá còn khó khăn. Quỹ phát triển đất không đủ để giải quyết bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất. Mặt khác, có thể thấy, cơ chế Nhà nước thu hồi đất theo quy hoạch đòi hỏi lượng kinh phí rất lớn để thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là điều khó thực hiện, nhất là đối với khu vực đã thu hồi đất không được các nhà đầu tư quan tâm. Từ đó dẫn tới việc đất đai rơi vào tình trạng lãng phí do thu hồi nhưng không thể đưa vào sử dụng. GS. TSKH Đặng Hùng Võ nhận định, trong 10 năm qua, Luật Đất đai 2013 không quy định về khái niệm “giá đất thị trường”. “Khuyết điểm” của các cấp có thẩm quyền ban hành Khung giá đất và Bảng giá đất thấp hơn thị trường chỉ nhận xét chung chung, không chứng minh được ai “có lỗi”, không có khái niệm pháp luật rõ ràng về “giá đất thị trường”.

Để hoàn thiện chính sách đất đai phù hợp với ngữ cảnh mới, GS.TSKH Đặng Hùng Võ nêu rõ, việc sửa đổi Luật Đất đai phải được coi như một yếu tố quan trọng, có tác động lớn đến mục tiêu đưa Việt Nam từ nước có thu nhập trung bình thấp thành nước có thu nhập cao vào năm 2045. Cùng với đó, trong việc sửa đổi Luật Đất đai cần thảo luận thêm một số vấn đề như quản lý sử dụng đất đa mục đích; hiện đại hóa hệ thống quản lý đất đai dạng địa chính 3D, 4D; chuyển đổi số trong quản lý đất đai; hoàn thiện cơ chế bồi thường, hỗ trợ, tái định cư…

9h45: Nếu giải quyết được vấn đề định giá đất đai, chúng ta sẽ giải quyết được các mối quan hệ 

TỔNG THUẬT: Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. -0
Các đại biểu tham dự phiên thảo luận. Ảnh: Hồ Long

Ngay sau phần trình bày tham luận, gợi mở hoàn thiện chính sách về đất đai, Hội thảo tiến hành trao đổi, thảo luận bàn tròn. Dưới sự điều phối của Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế Phan Đức Hiếu, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà; Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc; Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh; TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng CIEM; Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí Minh Lê Hoàng Châu; GS. TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ  trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; Giám đốc quốc gia Ngân hàng châu Á (ADB) tại Việt Nam Andrew Jeffries... tham gia thảo luận, làm rõ chủ đề đẩy mạnh cải cách thể chế - hoàn thiện chính sách về đất đai như một giải phá quan trong trong phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.

Câu hỏi đầu tiên với Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, hiện nay Chính phủ đang rất tích cực, nỗ lực để sửa đổi Luật Đất đai, được kỳ vọng sẽ tạo ra những cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu lực, hiệu quả sử dụng đất và đưa đất đai trở thành một nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân. Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì tham mưu cho Chính phủ và Quốc hội trong việc xây dựng và sửa đổi Luật Đất đai. Xin Bộ trưởng cho biết, 3 nội dung sẽ là cải cách đột phá trong sửa đổi Luật Đất đai lần này mà tác động đến thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của người dân?

TỔNG THUẬT: Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà phát biểu. Ảnh: Hồ Long

Mở đầu phần thảo luận bàn tròn, Bộ trưởng Trần Hồng Hà trao đổi về 3 vấn đề tâm huyết, ưu tiên. Trong đó, ưu tiên thứ nhất, trả lời cho câu hỏi để quản lý nhà nước thì công cụ nào là quan trọng nhất để tiếp tục đổi mới, thể chế hóa chính sách mới, theo Bộ trưởng, một trong những công cụ để thể hiện quyền đại diện của Nhà nước với sở hữu toàn dân là công tác quy hoạch. Cụ thể, công tác quy hoạch phải đổi mới về phương pháp, nội dung, hình thức và xác định lại vị thế để quy hoạch mang được quyền hạn, trách nhiệm của Nhà nước trong việc phân bổ nguồn lực tài nguyên hết sức quý giá, đặc biệt và quan trọng là đất đai. Giải quyết được công bằng, bình đẳng cho các bên, hay nói đúng ra là phải bảo đảm công bằng, bình đẳng cho các thế hệ và giải quyết được nhu cầu sử dụng đất, giải quyết những vấn đề trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Và thông qua công cụ này thể hiện được tính dân chủ trong quá trình các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt là người dân, có thể tham gia. 

Ưu tiên thứ hai, qua lắng nghe ý kiến của nhiều diễn giả tại Diễn đàn về định giá đất, tài chính đất đai, cá nhân Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, đây là những vấn đề, cả về mặt lý thuyết và thực tiễn, đang còn khoảng cách, nhận thức rất khác nhau. Nếu giải quyết được vấn đề định giá đất đai một cách công khai, minh bạch, bình đẳng, thì chúng ta sẽ giải quyết được các mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giải quyết được mối quan hệ của Nhà nước, những người dân có đất, những người dân bị thu hồi đất và doanh nghiệp. Như vậy, định giá đất là một vấn đề đi kèm vấn đề kinh tế và tài chính đất đai. Khi định giá đúng, với tất cả những quan điểm, chính sách vừa thị trường theo công cụ kinh tế nhưng phải là định hướng XHCN, thì chúng ta sẽ thực hiện được các chính sách về mặt xã hội thông qua vấn đề tài chính đất đai. “Tức là chúng ta hoàn toàn có thể chuyển từ mệnh lệnh hành chính sang từng bước kết hợp với thị trường, công cụ kinh tế kết hợp với hành chính, có như vậy chúng ta mới giải quyết được những vấn đề liên quan hiện nay, như đầu cơ thổi giá, đất đai sử dụng không hiệu quả, trường hợp có quá nhiều đất nhưng không sử dụng...”, Bộ trưởng nói.

Nội dung thứ ba Bộ trưởng “hết sức tâm đắc và hết sức quan trọng”, đó là chúng ta quản lý nguồn lực lớn như vậy nhưng chúng ta có nắm được về số lượng, chất lượng và kinh tế không trong khi chúng ta thiếu thông tin, thiếu đánh giá, thiếu giám sát? Với vấn đề thông tin dữ liệu đất đai, theo Bộ trưởng, “chúng ta có thể chuyển đổi số ở lĩnh vực đất đai càng sớm càng tốt thì sẽ thực hiện được quyền của Nhà nước thay mặt Nhân dân để giám sát nguồn lực này một cách tốt nhất”. Thông qua dữ liệu đất đai chúng ta sẽ giám sát được nguồn lực, giúp người dân có thể tiếp cận được các thông tin đất đai một cách công bằng, công khai và bình đẳng. Thông qua hệ thống này, chúng ta cũng có thể cải cách thủ tục hành chính để Nhà nước chuyển sang là một trong những cơ quan phục vụ Nhân dân, hơn là gây khó khăn về các “rừng thủ tục” hành chính như hiện nay, Bộ trưởng nêu rõ. 

Ngoài ra, Bộ trưởng cũng khẳng định “còn 8 vấn đề khác đã đặt ra trong Nghị quyết 18-NQ/TW đều là vấn đề hết sức là căn cơ, quyết liệt”.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc: Có 3 vấn đề chính về đất đai... 

Chia sẻ quan điểm về sửa đổi Luật Đất đai, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho rằng, Nghị quyết 18 của Ban Chấp hành Trung ương là "kim chỉ nam" trong việc định hướng để xây dựng luật và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian tới.

Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. -0
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc chia sẻ tại Hội thảo. Ảnh: Hồ Long

Theo Bộ trưởng, có ba vấn đề về tài chính, đất đai. Vấn đề thứ nhất là vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất. Thực ra đây là một lỗ hổng vô cùng lớn mà Luật Đất đai năm 2013 đã không bịt được và nó tạo nên thất thoát lớn về địa tô chênh lệch và cũng từ đây nó xảy ra một số sai phạm. Cho nên việc quản lý mục đích sử dụng đất phải hết sức chặt chẽ. Như ý kiến của Giáo sư Hoàng Văn Cường, tôi rất đồng thuận, là giá đất được sử dụng cho mục đích cho thuê để phát triển sản xuất kinh doanh trên mục đích cho thuê đó, còn khi không còn nhu cầu sử dụng thì Nhà nước sẽ thu hồi lại để đấu giá, hoặc chuyển cho cơ quan, tổ chức khác sử dụng một cách hiệu quả hơn. Điều đó sẽ tạo động lực phát triển, hay nói cách khác là tạo nguồn lực cho nền kinh tế phát triển. 

Thứ hai là vấn đề giá đất cũng tồn tại mấy vấn đề. Một là phương pháp xác định giá đất. Hiện nay, chúng ta thực hiện 5 phương pháp xác định giá đất nhưng các phương pháp xác định giá đất này chưa thực sự nhất quán, chưa thực sự chính xác, nó tạo ra một số lỗ hổng. Ví dụ, khi chuyển mục đích sử dụng đất hiện nay đa số là sử dụng phương pháp thặng dư, nhưng phương pháp thặng dư rõ ràng là phương pháp không không chính xác. Bởi vì, giá trị doanh thu của chúng ta và chi phí đầu tư của chúng ta đều giả định mà khi đã giả định thì sẽ không chính xác và không chính xác thì gây ra rủi ro pháp lý. Ngoài ra cũng tạo nên rủi ro cho doanh nghiệp và rủi ro cho bản thân những người làm cơ quan nhà nước...

Đây là vấn đề sắp tới chúng ta phải rà soát lại để định ra phương pháp phù hợp nhất, chính xác, nhất nhất quán nhất. Chẳng hạn phương pháp so sánh là phương pháp rất là khoa học. Hay như phương pháp hệ số, phương pháp này chúng ta bỏ được khung giá đất, có nghĩa khi xây dựng hai số tiệm cận với giá thị trường và khi có biến động thì điều chỉnh bằng hệ số...

Thứ ba là giao đất, lâu nay chúng ta coi thời điểm xác định giá đất là thời điểm giao đất nhưng không biết là tại thời điểm giao đất đến thời điểm xác định giá đất  là một tháng hay là sáu tháng hay là một năm thì không quy định. Do đó, phải quy định thời điểm xác định giá đất đến thời điểm giao đất không quá 6 tháng. Như thế mới bảo đảm được độ chính xác và khi "anh" nộp tiền vào ngân sách thì mới giao đất.

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh: Sẽ có nhiều nguồn lực để phát triển nhà ở xã hội

Thời gian qua, Bộ Xây dựng được Chính phủ, Quốc hội giao chủ trì xây dựng dự án Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động (sửa đổi). Trong quá trình nghiên cứu để trình Quốc hội, đến nay đối với Luật Nhà ở chúng tôi đang đề xuất 85 chính sách. Đối với Luật Kinh doanh bất động sản, chúng tôi đề xuất 4 nhóm chính sách. Các nhóm chính sách này đều liên quan đến các hoạt động trong lĩnh vực nhà ở và kinh doanh bất động sản. Riêng đối với chính sách về đất đai, đây là nhóm chính sách rất quan trọng có tác động đến hai luật nêu trên. Và trong quá trình nghiên cứu, dự thảo, chúng tôi thấy nổi bật lên mấy nhóm vấn đề.

TỔNG THUẬT: Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội -0
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Sinh chia sẻ tại Hội thảo. Ảnh Hồ Long

Thứ nhất là vấn đề liên quan đến việc dành quỹ đất để đầu tư phát triển các dự án nhà ở, dự án đô thị trong thời gian tới. Trong dự thảo luật này, chúng tôi cũng có nghiên cứu và có những đề xuất để theo hướng việc dành quỹ đất phải bảo đảm phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng cũng như quy hoạch đô thị.

Thứ hai, việc dành quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp. Trong thời gian qua, pháp luật về nhà ở thì cũng đã quy định về việc dành quỹ đất để phát triển nhà xã hội. Việc thực hiện giao cho các chủ đầu tư, các dự án nhà ở thương mại phải dành 20% quỹ đất và thực hiện ở các đô thị loại 3 trở lên. Chúng tôi cho rằng, việc dành quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội hội ở diện rộng trong khi nếu ta chỉ dành 20% quỹ đất và lại ở đô thị loại 3 trở lên thì sẽ hạn chế nguồn quỹ đất để phát triển nhà xã hội, nhất là những khu vực mà không phải là những đô thị từ loại ba, đặc biệt là những khu vực khu công nghiệp, khu có nhiều công nhân lao động. Do đó, trong dự thảo Luật lần này, chúng tôi đã đề xuất việc dành quỹ đất sẽ giao cho UBND các tỉnh trong quá trình lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất cũng như quy hoạch xây dựng phải dành một lượng phù hợp để đầu tư phát triển các dự án nhà ở xã hội, nhà công nhân.

Về vấn đề giao đất giao đất lựa chọn chủ đầu tư, tôi đồng tình với tham luận của GS. TS Hoàng Văn Cường vừa rồi cũng đã nêu đúng là vấn đề giao đất và lựa chọn chủ đầu tư trong các dự án nhà ở thương mại, các dự án đô thị là vấn đề rất quan trọng. Hiện nay, theo quy định pháp luật thì việc giao đất lựa chọn chủ đầu tư thì dựa trên 3 hình thức. Một là giao đất là theo hình thức là đấu giá quyền sử dụng đất. Thứ hai là đấu thầu dự án có sử dụng đất và thứ ba là được giao dưới dạng chỉ định. Hiện nay chúng tôi đang nghiên cứu hết sức thận trọng để đề xuất chính thức trong dự thảo Luật. Thời gian tới, nếu như vấn đề này được giải quyết thì chúng ta sẽ tạo ra nguồn lực rất lớn để phát triển các dự án nhà ở xã hội...

Quyền tự do kinh doanh được mở rộng - thành công lớn nhất trong cải cách thể chế

Tiếp cận chuyên đề dưới góc độ cải cách thể chế, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương Nguyễn Đình Cung cho rằng, đây là vấn đề được đẩy mạnh thực hiện trong thời gian qua, trong đó đối với pháp luật kinh doanh thì cải cách thành công nhất là về quyền tự do kinh doanh. Cụ thể, đã chuyển từ quy định theo nguyên tắc “chỉ được kinh doanh những gì pháp luật cho phép” sang nguyên tắc “kinh doanh theo những gì pháp luật không cấm”, với danh mục lĩnh vực, ngành nghề cấm thu hẹp hơn, đồng thời, danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện cụ thể, ngắn gọn. Có thể thấy, “việc quyền tự do kinh doanh được mở rộng, nâng cấp và được bảo đảm thực hiện hơn là thành công lớn nhất của chúng ta trong cải cách thể chế pháp luật kinh doanh”, ông Nguyễn Đình Cung nhận định. 

TỔNG THUẬT: Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội -0
Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương Nguyễn Đình Cung chia sẻ tại Hội thảo. Ảnh: Hồ Long

Còn điều chưa thành công và cần giải quyết nhiều năm qua, theo ông Nguyễn Đình Cung, đó là sự “hay thay đổi không đoán định được..., tạo nhiều rủi ro cho người dân, doanh nghiệp, khiến doanh nghiệp không yên tâm đầu tư kinh doanh lâu dài, không dám mạnh dạn đầu tư công nghệ, trang thiết bị, máy móc, thực hiện đổi mới sáng tạo. Tình trạng này xảy ra do, để thực hiện quy định tại Luật còn phải chờ ban hành nghị định, thông tư. Nhiều trường hợp người dân, doanh nghiệp quan tâm quy định ở thông tư hơn, tuy nhiên, quy trình, thủ tục xây dựng, ban hành thông tư đơn giản, khó được kiểm soát sát sao. Vấn đề này, ông Nguyễn Đình Cung cho rằng, “giải quyết không đơn giản”, mà trước hết đòi hỏi thông tư phải giảm, tiến tới bãi bỏ, không ban hành thông tư. Cùng với đó, trong Luật nếu có quy định giao Chính phủ hướng dẫn, thì quy định nguyên tắc, phạm vi hướng dẫn, không nên để hướng dẫn tùy nghi, hay thay đổi. Đồng thời, cần tiếp tục giảm dần luật khung, luật ống.

Ông Nguyễn Đình Cung cũng nêu rõ, cải cách pháp luật kinh doanh là vấn đề không dễ dàng, đòi hỏi phải thảo luận, nghiên cứu, đánh giá nhiều hơn để tiến tới đồng thuận nhiều hơn trong thực hiện.  

Giám đốc ADB Andrew Jeffries: Cải cách thể chế của Việt Nam bảo đảm môi trường kinh doanh năng động, hỗ trợ phát triển kinh tế 

Tham gia phát biểu tại Hội thảo, Giám đốc Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Andrew Jeffries nêu rõ, trong 30 năm qua, ADB đã hợp tác, hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong một số chương trình thúc đẩy cải cách thể chế nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống. Các lĩnh vực hỗ trợ của ADB bao gồm các cải cách theo ngành, lĩnh vực cụ thể như: lĩnh vực môi trường và sử dụng đất; năng lượng; mua sắm công; chính sách, pháp luật về  hợp tác công tư… Trong cải cách khu vực tài chính, ADB đã hỗ trợ trong các lĩnh vực: thị trường tiền tệ ngắn hạn; thị trường trái phiếu Chính phủ; ổn định tài chính của các ngân hàng; xếp hạng tín dụng như một biện pháp giảm thiểu rủi ro trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp…

TỔNG THUẬT: Đẩy mạnh cải cách thể chế - Hoàn thiện chính sách về đất đai, giải pháp quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội -0
Giám đốc Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Andrew Jeffries phát biểu

Về kết quả và tiến độ cải cách thể chế, ông Andrew Jeffries nhận thấy, Việt Nam có khuôn khổ pháp lý và thể chế tương đối hoàn thiện cho khu vực công. Chính phủ áp dụng hệ thống quy hoạch sâu rộng gồm các cấp quốc gia, trung ương và tỉnh với các chiến lược 5 năm, 10 năm; các kế hoạch tài chính và ngân sách theo giai đoạn và nhiều quy hoạch ngành. Sự tập trung ổn định vào cải cách thể chế của Việt Nam đã bảo đảm một môi trường kinh doanh năng động, dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao, bền vững và bao trùm trong suốt hai thập kỷ qua. Nhằm tiếp tục cải cách thể chế, Việt Nam cần lưu ý tới vấn đề thời gian và trình tự cải cách. Quá trình cải cách cần có tầm nhìn rộng hơn, và để đạt được tầm nhìn này cần một loạt bước đi nhỏ hơn, theo lộ trình. Bên cạnh những điểm sáng trong cải cách thể chế phục vụ cho sự phát triển bền vững, Việt Nam vẫn còn đối mặt những thách thức lớn. 

Về khuyến nghị chính sách, ADB đề xuất tập trung cải cách một số lĩnh vực cụ thể sau: hệ thống quản lý tài chính công; lĩnh vực tài chính; mua sắm công… Cụ thể, hệ thống quản lý tài chính công của chính quyền trung ương và các tỉnh đang hoạt động tương đối hiệu quả, được cập nhật thường xuyên và có khung thể chế được phân định rõ ràng. Thời gian tới, ADB sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam nhằm tăng cường năng lực dự báo khả năng thu và dự toán thu ngân sách của các tỉnh; xác định các sửa đổi liên quan tới khung khổ về phân bổ chi tiêu giữa các cơ quan chính phủ; hỗ trợ cải cách thuế nhằm tăng cường khả năng huy động nguồn lực trong nước; cải thiện hoạt động và duy trì dự toán ngân sách chi tiêu cho các dự án vốn, vì chi phí duy trì đôi khi không được tài trợ đầy đủ hoặc không được hạch toán vào ngân sách hàng năm liên tục sau khi hoàn thành dự án. 

ADB cũng sẽ giúp tăng cường năng lực của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam trong hoạt động giám sát chất lượng kiểm toán do kiểm toán viên bên ngoài thực hiện đối với các dự án khu vực công.

Trong lĩnh vực tài chính, lĩnh vực ngân hàng đang chiếm ưu thế, trong khi thị trường trái phiếu đang phát triển nhanh chóng nhưng sự tăng trưởng nhanh chóng của phân khúc trái phiếu doanh nghiệp làm gia tăng rủi ro. Cách tốt nhất để thúc đẩy sự minh bạch trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp là thông qua các tổ chức xếp hạng tín nhiệm rộng rãi. Vì ở Việt Nam, “văn hóa” xếp hạng tín nhiệm còn chưa phổ biến, điều này có thể được trau dồi thông qua xếp hạng bắt buộc - ADB hiểu rằng vấn đề này có thể đang được xem xét trong dự thảo sửa đổi Nghị định 153 của Bộ Tài chính.

Việt Nam cần vốn đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời giảm phát thải khí cacbon. Việt Nam cần thiết lập các quy định về ngân hàng “xanh” để khuyến khích các ngân hàng tham gia phân khúc này và cần có những cải cách nhằm khuyến khích các công ty bảo hiểm và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam tài trợ cho các tài sản xanh thông qua thị trường trái phiếu.

Việt Nam không thể và không nên nợ quá nhiều để đạt được những điều này. Do đó, những cải cách nhằm cải thiện huy động nguồn lực trong nước, cải thiện khu vực ngân hàng, thị trường trái phiếu và thị trường chứng khoán cũng như giải pháp thu hút, khuyến khích đầu tư tư nhân trở thành kênh cung cấp tài chính cho các hoạt động này là rất quan trọng, nhằm giảm áp lực lên ngân sách trung ương. Tất cả các hoạt động này đều liên quan trực tiếp đến thách thức bằng phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam và nhiều thách thức khác, chẳng hạn như trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung, vốn cần theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh của đất nước.

ĐBND

Củng cố, giữ vững ổn định vĩ mô - yếu tố “bất biến” để thích ứng với “vạn biến” -0

#