Lợi ích nổi bật
Cuối tháng 8 vừa qua, trên tạp chí “Cây trồng và thực phẩm biến đổi gene” (GM Crops and Food), TS. Graham Brookes thuộc Viện nghiên cứu PG Economic (Vương quốc Anh) đã công bố nghiên cứu về tác động của việc sử dụng cây trồng biến đổi gene ở cấp độ thu nhập nông hộ và sản xuất nông nghiệp từ năm 1996 - 2020.
Nghiên cứu chỉ ra những lợi ích kinh tế nổi bật ở cấp độ nông hộ dành cho nông dân. Cụ thể, tổng thu nhập tích luỹ gia tăng khi trồng cây biến đổi gene là 261,3 triệu USD, tương đương với mức tăng khoảng 112 USD/ha gieo trồng. Riêng năm 2020, mức thu nhập gia tăng mà nông dân trồng cây biến đổi gene thu về là 18,8 triệu USD (tương đương với mức tăng 103 USD/ha).
Đáng chú ý, nghiên cứu cho thấy cây trồng biến đổi gene mang lại lợi ích kinh tế nhiều hơn cho nông dân canh tác quy mô nhỏ so với nông dân tại các nước có quy mô nông trại lớn. Theo đó, mức tăng thu nhập được chia 52% cho nông dân các nước đang phát triển và 48% cho nông dân các nước phát triển. Khi đi sâu vào đánh giá đâu là các yếu tố giúp gia tăng thu nhập, nghiên cứu kết luận 72% là nhờ tăng năng suất và sản lượng, 28% nhờ chi phí cắt giảm do công lao động giảm.
Về hiệu suất đầu tư, nghiên cứu cho thấy với mỗi 1 USD nông dân đầu tư thêm vào công nghệ hạt giống biến đổi gene (so với giống cây thông thường), họ sẽ thu về thu nhập gia tăng 3,76USD. Ở các nước đang phát triển, nông dân thậm chí còn thu lại được nhiều hơn với mức tăng thêm 5,22USD trong khi con số này ở các nước đang phát triển là 3USD.
Ở cấp độ toàn cầu, lợi ích về năng suất và sản lượng của cây trồng biến đổi gene đã đóng góp quan trọng vào việc duy trì tính bền vững và thúc đẩy tăng trưởng sản lượng những cây trồng quan trọng. Thế giới đã có thêm 300 triệu tấn ngô và 595 triệu tấn đậu tương từ giữa những năm 1990 cho tới nay. Chỉ tính riêng năm 2020, trên 4 loại cây trồng chính, công nghệ biến đổi gene đã tạo ra thêm 85 triệu tấn đậu tương, ngô, bông, cải dầu. Nếu không có công nghệ này, ước tính nông dân sẽ phải cần thêm 23,4 triệu hecta đất nông nghiệp để có thể đạt được mức sản lượng gia tăng tương đương.
Nhiều nước đồng loạt dịch chuyển chính sách
Lợi ích kinh tế và lợi ích sinh học (kháng thuốc trừ cỏ, kháng sâu) của cây trồng biến đổi gene đang tạo ra sự thay đổi chính sách rõ nét ở nhiều quốc gia chỉ trong thời gian ngắn.
Để khắc phục tình trạng leo thang giá của nguyên liệu đầu vào thức ăn chăn nuôi, đầu năm nay Kenya đã cho phép nhập khẩu ngô vàng với hàm lượng biến đổi gene tối thiểu. Tới đầu tháng 10 vừa qua, sau khi xem xét kỹ lưỡng các vấn đề liên quan đến cây trồng biến đổi gene và an toàn thực phẩm, Tổng thống William Ruto đã thông báo dỡ bỏ lệnh cấm đối với các giống cây trồng và cho phép nhập khẩu thực phẩm, thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ thực vật biến đổi gene sau 10 năm.
Tháng 4 năm nay, hãng Bloomberg cũng đưa tin nông dân châu Âu chuyển sang mua thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ cây trồng biến đổi gene nhiều hơn từ Hoa Kỳ và Nam Mỹ sau khi cuộc chiến của Nga tại Ukraina đã cắt đứt các lô hàng ngô nhập khẩu từ quốc gia này.
Đặc biệt, tháng 6 vừa qua xảy ra một sự kiện được đánh giá là quan trọng với nền nông nghiệp thế giới khi Ủy ban phê duyệt giống cây trồng quốc gia Trung Quốc đã ban hành 2 tiêu chuẩn nhằm tạo cơ sở cho việc canh tác cây trồng biến đổi gene ở quốc gia này. Đây là mảnh ghép pháp lý còn thiếu liên quan đến các quy định cho phép canh tác thương mại hóa ngô và đậu tương biến đổi gene tại Trung Quốc. Chính phủ đã đưa ra hai bước trong các quy định này, đó là “chứng nhận an toàn” và “công nhận giống” trước khi trồng trên diện rộng.
Hàm ý nào cho Việt Nam?
Thực tế, cây trồng biến đổi gene là một thành tựu của việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp. Việt Nam cũng sớm có định hướng phát triển cây trồng công nghệ sinh học nói chung và cây trồng biến đổi gene; gần đây nhất là Quyết định 429/QĐ-TTg ban hành tháng 3.2021 phê duyệt Đề án phát triển công nghệ sinh học ngành nông nghiệp đến năm 2030. Cùng với đó, hệ thống pháp lý cho việc sử dụng và canh tác cây trồng biến đổi gene được hoàn thiện từ năm 2014 và được đánh giá là khoa học, tiên tiến trên thế giới.
Với hành lang này, ngô biến đổi gene được cấp phép canh tác thương mại từ năm 2015. Đến năm 2021, diện tích canh tác ngô công nghệ sinh học khoảng 180.000 hecta, chiếm khoảng hơn 20% tổng diện tích trồng ngô cả nước. Kết quả đánh giá việc canh tác ngô biến đổi gene ở nước ta tiến hành năm 2019 - 2020 cho thấy, năng suất của các giống ngô biến đổi gene với các tính trạng kháng sâu và chống chịu thuốc trừ cỏ cao hơn so với các giống ngô lai thường từ 15,2% - 30%. Lợi nhuận cũng tăng 196 - 330 USD/ha (tương đương 4,5 - 7,6 triệu đồng/ha). Đáng chú ý, lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng cũng giảm đáng kể: với thuốc trừ cỏ là 26% và thuốc trừ sâu là 78%.
Tuy vậy, việc thực thi các quy định pháp lý liên quan tới cây trồng biến đổi gene những năm gần đây khá chậm trễ và không nhất quán. Điều này làm giảm khả năng tiếp cận của nông dân với các giống cây mang tính trạng cải tiến thế hệ mới, bao gồm cả giống ngô biến đổi gene. Hệ quả là việc nhập ngô biến đổi gene ngày một nhiều hơn để sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Nghiên cứu mới nhất cho thấy đóng góp nổi bật của cây trồng biến đổi gene cùng sự dịch chuyển chính sách của nhiều nước hàm ý rằng, đã đến lúc Việt Nam thay đổi thực trạng thực thi các quy định pháp lý liên quan tới cây trồng biến đổi gene nói trên. Điều này một mặt giúp nông dân thích ứng tốt hơn với điều kiện canh tác ngày càng khắc nghiệt, cải thiện năng suất và thu nhập cho nông hộ…; mặt khác khuyến khích họ mở rộng canh tác, từ đó phần nào tự chủ được nguồn cung thức ăn chăn nuôi trong nước.