Đây là ý kiến của các diễn giả tại tọa đàm “Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất: Từ chính sách đến thực thi” do báo Việt Nam News và Công ty CP Quảng cáo và Hội chợ Thương mại VINEXAD tổ chức ngày 4.4.
Cơ hội phát triển bền vững
EPR khuyến khích việc quản lý vật liệu theo phương thức tuần hoàn, trong đó các sản phẩm, bao bì thải bỏ được thu hồi, tái chế, tái sử dụng để tạo ra các sản phẩm mới thay vì được đưa đến các bãi chôn lấp. Việc chuyển hướng dòng chất thải một mặt giúp giảm áp lực môi trường, mặt khác mang lại hiệu quả kinh tế, giúp thay đổi nhận thức trong xã hội, kích thích sự đổi mới. EPR được coi là một công cụ quan trọng trong quản lý chất thải rắn, là động lực thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn.
Tại Việt Nam, EPR được quy định tại Ðiều 54 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và được quy định chi tiết tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
Theo các văn bản này, kể từ ngày 1.1.2024, các nhà sản xuất, nhập khẩu sản phẩm dầu nhớt, pin, ắc quy, xăm lốp và các loại bao bì thương mại phải thực hiện tái chế hoặc đóng phí hỗ trợ hoạt động tái chế chất thải. Nhà sản xuất, nhập khẩu sản phẩm điện, điện tử thực hiện trách nhiệm tái chế từ ngày 1.1.2025. Nhà sản xuất, nhập khẩu phương tiện giao thông (ô tô, xe máy) thực hiện trách nhiệm tái chế từ ngày 1.1.2027.
Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam Đoàn Thị Tuyết Nhung đánh giá, thực hiện EPR sẽ góp phần giữ gìn nguồn tài nguyên cho tương lai, giảm thiểu rác thải gây ô nhiễm môi trường, thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và góp phần hiện thực hóa cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 về đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Bên cạnh đó, các diễn giả tại tọa đàm cho rằng, EPR không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội để các doanh nghiệp phát triển bền vững hơn. Việc thực hiện EPR giúp doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của đối tác, từ đó có cơ hội tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, Việt Nam là một trong những quốc gia Đông Nam Á đầu tiên áp dụng công cụ EPR. Do đó, đây là một thách thức bởi các quy định, quy trình mới luôn cần thời gian để triển khai và thực thi một cách thông suốt và hiệu quả.
Thường xuyên tham vấn, đối thoại
Bà Mette Moglestue, Phó Đại sứ Na Uy tại Việt Nam, nhấn mạnh, EPR là một trong những biện pháp giúp Việt Nam thúc đẩy và phát triển nền kinh tế tuần hoàn, cũng như chuyển đổi xanh. Các doanh nghiệp có thể than khó, tuy nhiên trên thực tế họ vẫn có thể thực hiện hiệu quả được các quy định cũng như các chính sách đầy tham vọng của Nhà nước về các tiêu chuẩn, chỉ tiêu EPR đồng thời vẫn kinh doanh thành công. Đây không chỉ là kinh nghiệm ở Na Uy mà là kinh nghiệm của nhiều nước khác và Việt Nam cũng nên làm như vậy, bà Mette Moglestue nói.
Bên cạnh đó, một kinh nghiệm khác của Na Uy là cơ chế đối thoại. Chính phủ Na Uy đã và đang tham vấn cũng như đối thoại thường xuyên liên tục với tất cả các bên liên quan, trong đó có các viện nghiên cứu, doanh nghiệp tư nhân và cả báo chí, trong quá trình xây dựng chính sách. Mục tiêu là để có được một chính sách EPR hiệu quả và bảo đảm tính khả thi trên thực tế.
Ông Hoàng Thành Vĩnh, Cán bộ chương trình phụ trách Chất thải và Kinh tế tuần hoàn, Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) Việt Nam cho biết, Việt Nam là một trong những nước đầu tiên triển khai EPR, khi bắt đầu khởi động quy trình này vào năm 2022 và năm 2024 là bước tiếp theo.
Qua kinh nghiệm triển khai EPR từ quốc tế, ông Vĩnh cho rằng, cần sớm ban hành định mức chi phí tái chế (Fs) và quy định về quản lý nguồn lực EPR; đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các doanh nghiệp tự thu gom tái chế. Trong quá trình thực hiện, điều quan trọng là phải cân bằng, tối ưu góc độ kinh tế. Bởi ở khía cạnh môi trường, nhựa tái chế rất tốt cho môi trường nhưng màu sắc không đẹp bằng và giá thành đắt hơn nhựa nguyên sinh. Do đó, cần có các chính sách khuyến khích, ưu đãi cho các doanh nghiệp sử dụng nhựa tái chế.
Ông cũng khuyến nghị Nhà nước cần đầu tư thêm nguồn lực để hỗ trợ hoạt động thu gom được tốt hơn, với mục tiêu tăng tỷ lệ tái chế và hàm lượng tái chế trong sản phẩm. Công tác quản lý chất thải cũng cần được nâng cao, trong đó cần thúc đẩy các thiết kế hạ tầng thu gom chất thải, tái chế, tăng cường sự tham gia của cộng đồng, đẩy mạnh các mô hình đã được chứng minh có hiệu quả trong hoạt động thu gom, tái chế, song song với việc nâng cao nhận thức, góp phần giúp cộng đồng tiếp nhận mạnh mẽ hơn các sản phẩm tái chế.