Cách đây 70 năm, vào ngày 9.11.1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được QH Khóa I thông qua tại Kỳ họp thứ 2. Đây là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kỳ bản hiến pháp nào trên thế giới.
Bản Hiến pháp ra đời ngay sau khi đất nước ta vừa giành được độc lập, vận mệnh của dân tộc đang đứng trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Nhiệm vụ của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là vừa phải củng cố chính quyền cách mạng, cải thiện đời sống nhân dân, vừa phải chống thù trong, giặc ngoài.
Trước tình hình đó, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ xây dựng tổ chức nhà nước, tổ chức tổng tuyển cử bầu QH để ấn định cho Việt Nam một Hiến pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Đây có thể được xem là tuyên bố lập hiến của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thực hiện lời tuyên bố đó, ngày 6.1.1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu QH lập hiến đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã diễn ra thắng lợi trên toàn quốc. Tại Kỳ họp đầu tiên của QH Khóa I, QH đã bầu ra Ban dự thảo Hiến pháp và 8 tháng sau, vào ngày 9.11.1946, tại Kỳ họp thứ 2 của Quốc hội Khóa I, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặt nền tảng chính trị, pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước Việt Nam mới.
|
Trải qua 70 năm kể từ ngày Hiến pháp năm 1946 ra đời, trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau, QH nước ta đã ban hành các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và 2013 trên cơ sở kế thừa và phát huy kinh nghiệm lập hiến và những giá trị chính trị, pháp lý của bản Hiến pháp đầu tiên. Tuy vậy, hoàn cảnh ra đời, nội dung và cả quy trình, kỹ thuật lập hiến của bản Hiến pháp năm 1946 vẫn còn để lại những bài học cần phải tiếp tục nghiên cứu, phát huy:
Một là, phân tích, làm rõ những giá trị về tư tưởng pháp quyền được thể hiện trong Hiến pháp 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các bản Hiến pháp về sau, đặc biệt là trong bản Hiến pháp năm 2013. Đã có nhiều ý kiến cho rằng Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp thể hiện tư tưởng pháp quyền một cách rất sâu sắc qua việc khẳng định “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”, “những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”; quy định và bảo đảm các quyền của công dân; thiết kế bộ máy nhà nước có sự phân chia giữa các nhánh quyền lực trong đó nhấn mạnh đến tính độc lập của hệ thống tòa án… Rõ ràng, tư tưởng pháp quyền trong Hiến pháp 1946 là rất dân chủ, tiến bộ. Vấn đề đặt ra là cần tiếp tục kế thừa và phát huy những tư tưởng này như thế nào trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Hai là, về những bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức mô hình tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946. Có thể nói, Hiến pháp này đã tiếp thu có chọn lọc các hiến pháp dân chủ và tiến bộ của các nước, đồng thời đã Việt hóa một cách tối đa cho phù hợp với điều kiện của nước ta. Điểm nổi bật của mô hình tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1946 là đề cao vai trò của nghị viện nhân dân, cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước, nhấn mạnh vai trò của nghị viện trong việc giám sát Chính phủ; đề cao tính độc lập của hệ thống tòa án - cơ quan tư pháp; phân quyền rõ nét và hợp lý cho chính quyền địa phương… Mặc dù những quy định này chưa được tổ chức kiểm nghiệm nhiều trên thực tế do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ đất nước có chiến tranh nhưng tinh thần, tư tưởng và giá trị của nó đã được đặt ra và kế thừa trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 2013. Cho đến nay, những giá trị này vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu để phát huy trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính và xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Ba là, phân tích, làm rõ những giá trị của các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1946. Trong bản Hiến pháp này, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các quyền tự do dân chủ của con người được đạo luật cơ bản ghi nhận và bảo đảm, cũng lần đầu tiên người dân Việt Nam được xác nhận có tư cách công dân của một nước độc lập, có chủ quyền. Trong số bảy chương của bản Hiến pháp thì chương về “Nghĩa vụ và quyền lợi công dân” được xếp thứ hai, gồm 18 điều, trong đó có 16 điều trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Có thể nói, đây là nội dung đã được nghiên cứu, tiếp thu tương đối nhiều trong quá trình xây dựng Hiến pháp năm 2013, từ nội dung của từng quy định của Hiến pháp cho đến cấu trúc, vị trí của chương về quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp. Trong thời gian qua, QH cũng đã tích cực thể chế hóa các quy định của Hiến pháp trong các đạo luật quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Tuy nhiên, những bài học trong việc bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp năm 1946 và các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành trong thời kỳ từ năm 1946 đến năm 1960 vẫn còn đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ, nhất là trong bối cảnh Nhà nước ta đang hướng tới việc xây dựng một Nhà nước kiến tạo để tạo điều kiện và khuyến khích người dân tự do phát huy năng lực sáng tạo, góp phần vào quá trình phát triển của đất nước.