Nhiều khó khăn trong hợp tác công – tư xử lý nước thải, chất thải rắn

- Thứ Tư, 06/07/2022, 19:33 - Chia sẻ

Tại tọa đàm “Mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong xây dựng và vận hành các nhà máy xử lý nước thải và chất thải rắn Việt Nam" mới đây, các đại biểu cho rằng, mô hình PPP sẽ cải thiện mạnh mẽ chất lượng môi trường đô thị nhờ nguồn lực dồi dào và sự năng động của khối tư nhân. Tuy nhiên, để hiện thực hóa vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.

Áp lực lớn trong xử lý môi trường

Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) Vũ Tiến Lộc cho biết, tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa đang tạo áp lực ngày một nặng nề với công tác thu gom, xử lý nước thải, chất thải rắn đô thị.

Tại Việt Nam, riêng với lĩnh vực xử lý nước thải, tính đến năm 2018, có 43 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung đang được vận hành với tổng công suất thiết kế trên 926 nghìn m3/ngày đêm. Tỉ lệ nước thải được thu gom và xử lý đối với lượng nước thải được xả thẳng ra hệ thống tiêu thoát nước bề mặt mới chỉ đạt khoảng 13%.

Toàn cảnh tọa đàm
Toàn cảnh tọa đàm

Trong lĩnh vực xử lý chất thải rắn, theo báo cáo của các Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương, lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh hiện nay tại các khu đô thị vào khoảng 38.000 tấn/ngày. Chất thải công nghiệp thông thường ước tính khoảng 25 triệu tấn/năm, còn chất thải nguy hại phát sinh từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, ước tính khoảng 1 triệu tấn/năm.

Trước thực tế ấy, Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với mục tiêu cụ thể: đến năm 2030 tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đạt 95%. Theo đó, tỉ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định lần lượt đạt trên 50% đối với đô thị loại II trở lên và 20% đối với các loại đô thị còn lại. Ngoài ra, tại Nghị quyết đại hội XIII cũng có mục chỉ tiêu xử lý nước thải là 70%. Theo đó, chỉ tính riêng trong lĩnh vực xử lý nước thải, việc tăng chỉ tiêu từ 15% lên 70% trong vòng 10 năm tới cần nguồn đầu tư rất lớn từ 10-20 tỷ USD.

Thu hút dự án đầu tư PPP còn hạn chế

Do vậy, theo Chủ tịch VIAC để hiện thực hóa mục tiêu trên, cần  huy động đa dạng các nguồn lực tham gia vào lĩnh vực này, trong đó có các dự án đầu tư theo mô hình đối tác công - tư (PPP). Tuy nhiên, trong thời gian trước đây, việc triển khai loại hình hợp tác công tư trong lĩnh vực xử lý nước thải, chất thải rắn chưa có nhiều, chỉ có một số dự án thực hiện theo mô hình Xây dựng – Chuyển giao (BT).

Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đánh giá PPP hiện nay  chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Thượng Hiền cho biết, sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân  trong hoạt động xử lý nước thải và chất thải rắn sinh hoạt còn hạn chế; vẫn phải chủ yếu vẫn phải dựa vào nguồn vốn Ngân sách huy động thông qua vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc  ngân sách Nhà nước.

Thách thức ở chỗ, trong khi 2 nguồn này ngày càng khó khăn, tư nhân lại chưa mặn mà với các dự án trong lĩnh vực này. Cho đến nay chỉ có vài  dự án đầu tư được triển khai theo hình thức BT, BOT như Dự án nhà máy xử lý nước thải lưu vực kênh Tham Lương - Bến Cát (TP. Hồ Chí Minh), Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy xử lý nước thải Yên Sở (Hà Nội)…

Tạo môi trường thuận lợi, an toàn cho nhà đầu tư

Cũng theo ông Hiền, thực tế đã có Chính sách của Nhà nước đối với thu hút đầu tư theo hình thức PPP trong lĩnh vực xử lý nước thải và chất thải rắn đô thị. Tuy nhiên, chính sách hiện có  chưa đủ sức hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư Theo ông Hiền cơ chế huy động nguồn lực từ tư nhân vẫn chưa phát huy hiệu quả, thiếu các cam kết, hỗ trợ cụ thể để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thông thoáng và an toàn cho nhà đầu tư…

Chia sẻ về vấn đề này, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Thái Nguyên Nguyễn Thế Giang cho biết, tại Thái Nguyên hiện giá dịch vụ xử lý nước thải, chất thải rắn trên địa bàn tỉnh còn thấp, trong khi chi phí vận hành, bảo dưỡng hệ thống xử lý yêu cầu kinh phí cao, liên tục nên rất khó khăn trong việc mời gọi các nhà đầu tư tham gia thực hiện các dự án.

Ngoài ra, theo ông Giang các hợp đồng PPP được ký kết trước khi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tác ra đời, hành lang pháp lý chưa đầy đủ, chưa rõ ràng trách nhiệm của các bên liên quan, chưa có cơ chế chia sẻ rủi ro trong quá trình vận hành dự án. Do đó, theo ông Giang Cần ưu ưu tiên xây dựng mới, điều chỉnh định mức kinh tế kỹ thuật xây dựng đơn giá đối với dịch vụ xử lý nước thải, chất thải rắn sinh hoạt theo từng công nghệ áp dụng bảo đảm khả năng thu hồi vốn và có lãi nhằm thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân.

Góp ý thêm về cơ chế chính sách, theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường thời gian tới cần: xây dựng chiến lược, quy hoạch hợp lý về phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở và hình thành một khung pháp lý rõ ràng cho PPP, trong đó có các cơ chế, chính sách về tín dụng, phí dịch vụ, đất đai,... để thu hút đầu tư của tư nhân.

Đồng thời, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách, đi kèm với hướng dẫn chi tiết đối với các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với lĩnh vực xử lý nước thải và chất thải rắn đô thị. Xây dựng và ban hành hướng dẫn quy trình lựa chọn chủ đầu tư dự án xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư có áp dụng công nghệ sạch, thân thiện với môi trường. Cùng với đó, đẩy mạnh hình thức đấu thầu rộng rãi lựa chọn nhà đầu tư, ưu tiên đấu thầu quốc tế; hạn chế tối đa chỉ định thầu.

Quang Khánh