Đánh thức “mỏ vàng” rong biển

- Thứ Hai, 05/12/2022, 05:56 - Chia sẻ

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phùng Đức Tiến, trồng rong biển có thể giải quyết sinh kế bền vững, tăng thu nhập cho dân cư ven biển và giảm ô nhiễm, giảm phát thải. Từ nay đến hết tháng 1.2023, Tổng cục Thủy sản phải trình Bộ chương trình cụ thể về phát triển rong biển.

900.000ha có thể trồng rong biển

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phùng Đức Tiến cho biết, năm 2021, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1664/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; trong đó xác định rong biển là đối tượng tiềm năng cần phát triển để hướng đến mục tiêu tăng trưởng xanh, bền vững.

Ngành hàng rong biển nước ta được đánh giá có rất nhiều tiềm năng phát triển
Ngành hàng rong biển nước ta được đánh giá có rất nhiều tiềm năng phát triển. Nguồn: ITN

Thực tế, rong biển là nguồn lợi có thể tái tạo. Hầu hết các quốc gia có biển đều quan tâm bảo tồn và phát triển nguồn lợi rong biển. Trồng rong biển có thể qiải quyết sinh kế bền vững, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho dân cư ven biển; đồng thời là giải pháp giảm thiểu ô nhiễm, giảm phát thải CO2 và giảm áp lực lên hệ sinh thái, góp phần vào sự phát triển bền vững trong nuôi trồng thủy sản và các ngành khác.

Thống kê từ Tổng cục Thủy sản, đến 2014, Việt Nam đã ghi nhận được 827 loài, thuộc 4 ngành là rong lam 88 loài, rong đỏ 412 loài, rong nâu 147 loài và rong lục 180 loài; vùng Trung bộ có tính đa dạng loài rong cao nhất trong cả nước.

Diện tích có tiềm năng cho trồng rong biển ở nước ta khoảng 900.000ha, nhưng việc trồng rong còn sơ khai. Diện tích trồng rong biển giai đoạn 2005 - 2019 khoảng 10.150ha, sản lượng 120.000 tấn tươi. Trong đó, diện tích trồng rong câu khoảng 8.200ha, chiếm tỷ lệ cao nhất trong ngành trồng rong biển ở Việt Nam. Tiếp theo là rong sụn khoảng 1.550ha trên diện tích tiềm năng khoảng 10.000ha và sản lượng thu hoạch là 23.500 tấn; hiện trồng nhiều ở các tỉnh Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định…

Một số doanh nghiệp lớn đã tham gia sản xuất và chế biến rong biển như Công ty TNHH Hải Nam Okinawa ở Bình Thuận chuyên sản xuất rong nho tươi và rong nho muối bán cho Nhật Bản với công suất 130 - 150 tấn/năm. Công ty Nhựa Super Trường Phát ở Quảng Ninh sản xuất giống và trồng rong sụn Eucheuma cotonii trên dàn phao sử dụng vật liệu HDPE, sản lượng khoảng 2000 tấn/năm...

Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Phú Yên Lê Tấn Hổ cho biết, rong biển là đặc sản của tỉnh này, sản lượng khai thác hàng năm khoảng 300 tấn/năm, chủ yếu là rong câu, rong mứt. Gần đây, người dân chuyển đổi sang trồng rong nho trên những diện tích nuôi thủy sản kém hiệu quả. Phú Yên định hướng đến năm 2030, trồng rong nho khoảng 380ha, sản lượng khoảng 1.300 tấn/năm tại một số vùng như vịnh Xuân Đài, đầm Cù Mông (TX. Sông Cầu), đầm Ô Loan (huyện Tuy An), vùng biển mở… nhằm cải thiện môi trường, tạo thu nhập ổn định cho ngư dân.

Tương tự, Giám đốc Sở NN-PTNT Khánh Hòa Lê Tấn Bản cho biết, với quyết tâm khẳng định vị thế "thủ phủ rong biển", tỉnh sẽ nghiên cứu phát triển các loài rong bản địa thành sản phẩm hàng hóa. Bên cạnh đó, thành lập các Tổ liên kết trồng rong giúp người nuôi nâng cao nhận thức, tạo điều kiện gắn kết, hợp tác với nhau để có đầu ra ổn định, nâng sức cạnh tranh, giá trị sản phẩm. 

Kỳ vọng sớm bứt phá

Dù có nhiều tiềm năng nhưng diện tích và sản lượng rong biển nước ta hiện còn rất thấp so với các quốc gia ven biển trong khu vực, thậm chí còn giảm. Những sản phẩm rong biển được sản xuất, chế biến từ các công ty Việt Nam khá “khiêm tốn” trước các sản phẩm ngoại nhập. Tại hệ thống siêu thị trong nước, các sản phẩm rong biển Hàn Quốc và Nhật chiếm ưu thế. 

Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Trần Đình Luân cho rằng, ngay từ bây giờ cần nghiên cứu, chọn tạo để có những giống rong chất lượng dùng trong lĩnh vực thực phẩm, dược phẩm. Tiếp đến là công nghệ trồng để có thể đạt sản lượng cao nhất, rút ngắn thời gian trồng, đặc biệt là đạt chất lượng xuất khẩu. Ngoài ra, chế biến cũng cần thoát khỏi sự đơn điệu, việc đầu tư cho nghiên cứu, chế biến cần đi vào chiều sâu. Các nhà khoa học cùng doanh nghiệp cần chung tay nghiên cứu để tạo ra những sản phẩm giá trị của ngành rong Việt Nam, ông Luân nói.

Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, một trong những giải pháp cơ bản để tăng tốc toàn diện ngành rong biển là ứng dụng khoa học công nghệ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai các nhiệm vụ lưu giữ nguồn gen và nghiên cứu chọn tạo giống rong biển phục vụ phát triển khoa học công nghệ về giống giai đoạn 2021 - 2025 thuộc Chương trình phát triển nghiên cứu, sản xuất giống phục vụ cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2030. Từ nay đến hết tháng 1.2023, Tổng cục Thủy sản phải trình Bộ chương trình cụ thể về phát triển rong biển.

Trúc Oanh