Gỡ vướng trong triển khai Nghị quyết 68/NQ-CP

- Thứ Hai, 11/10/2021, 11:31 - Chia sẻ
Đã 3 tháng kể từ khi Nghị quyết 68/NQ-CP của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 được ban hành và có hiệu lực. Mặc dù ghi nhận những kết quả thực hiện trong quá trình triển khai song theo đánh giá của nhiều chuyên gia, các chính sách ứng phó về kinh tế của Việt Nam để thích ứng với dịch bệnh còn có quy mô nhỏ và thiếu cân bằng. Việt Nam cần có những giải pháp tối ưu hơn để người dân được thụ hưởng gói hỗ trợ một cách kịp thời nhất.
Khoảng 18,68 triệu lượt người lao động đã nhận được hỗ trợ theo Nghị quyết 68
Khoảng 18,68 triệu lượt người lao động đã nhận được hỗ trợ theo Nghị quyết 68

15,8 nghìn tỷ đồng được giải ngân

Theo báo cáo từ Sở Lao động, Thương binh và Xã hội của 63 tỉnh, thành phố, tổng kinh phí đã hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động theo Nghị quyết 68, Quyết định 23 tính đến ngày 4.10 là gần 15,8 nghìn tỷ đồng; trên 19 triệu lượt đối tượng (trong đó gồm 379.610 lượt đơn vị sử dụng lao động, gần 18,68 triệu lượt người lao động và các đối tượng khác) đã được thụ hưởng. Tại 25 tỉnh, thành phố miền Nam, tổng các chính sách hỗ trợ là trên 11,77 nghìn tỷ đồng (chiếm 75,1% toàn quốc) với trên 11,86 triệu đối tượng (chiếm 62,4% toàn quốc).

Đối với chính sách cho vay vốn để trả lương ngừng việc và phục hồi sản xuất đã có hồ sơ của 927 lượt người sử dụng lao động và 132.400 lượt người lao động được phê duyệt với số kinh phí trên 466,4 tỷ đồng; đã giải ngân gần 462 tỷ đồng (chiếm 6,2% kinh phí dự kiến chính sách về vay vốn của Nghị quyết 68), hỗ trợ 922 lượt người sử dụng lao động để trả lương cho 132.400 lượt người lao động.

Dù đã đạt kết quả ban đầu khả quan, song, theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), các chính sách ứng phó về kinh tế của Việt Nam để thích ứng với dịch bệnh còn có quy mô nhỏ và thiếu cân bằng; chương trình trợ giúp xã hội còn rụt rè, hạn chế và chậm triển khai, dẫn tới khó duy trì các thành tích tăng trưởng kinh tế như trước đây. 

Lý giải về việc nhóm chính sách hỗ trợ vay vốn chưa phát huy hiệu quả, theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, chính sách này chưa có nhiều doanh nghiệp đón nhận, doanh nghiệp không mấy mặn mà làm hồ sơ vay vốn. Bởi lẽ, họ cho rằng, việc vay tiền để trả lương cho người lao động không phải là chính sách hỗ trợ tín dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, thủ tục vay vốn khá chặt chẽ dù đã được cắt giảm nhiều, cũng khiến các doanh nghiệp khó khăn khi tiếp cận chính sách hỗ trợ này.

Nói rõ hơn về vấn đề này, Nghiên cứu viên, Viện Khoa học Lao động và Xã hội Phạm Minh Thu cho rằng, ở chính sách đào tạo, hỗ trợ đào tạo cho người lao động chỉ 1 triệu đồng/người nhưng kèm theo đó, doanh nghiệp phải nộp rất nhiều giấy tờ liên quan như xác nhận đóng bảo hiểm đầy đủ; phương án đào tạo phối, kết hợp với các bên liên quan…

Triển khai nhiều giải pháp tích cực

Nhằm giải quyết những bất cập liên quan đến vay vốn hỗ trợ, tại tờ trình đề nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị quyết 68, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã đề nghị, xem xét lược bỏ điều kiện về nợ xấu để tạo điều kiện cho người sử dụng lao động tiếp cận chính sách và đạt mục tiêu đề ra; góp phần hỗ trợ bảo đảm đời sống người lao động, hoạt động của doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh đang diễn biến phức tạp và tác động nặng nề lên nhiều mặt của đời sống xã hội.

Còn với các chính sách hỗ trợ bằng phát tiền mặt, nhiều chuyên gia cho rằng, cần phát huy hơn nữa vai trò của địa phương. Cụ thể, theo thống kê từ Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội, những địa phương đi đầu trong việc thực hiện các chính sách hỗ trợ bằng ngân sách như Hà Nội, Bình Dương hay TP. Hồ Chí Minh đều có nền kinh tế vững vàng và hoàn toàn tự chủ gói hỗ trợ. Thực tế đó cho thấy, tiềm lực của địa phương ảnh hưởng trực tiếp tới việc giải ngân gói hỗ trợ. Thêm nữa, lao động tự do chiếm phần lớn trong số lao động được hỗ trợ bằng tiền mặt (3 triệu/4 triệu người được hỗ trợ). Địa phương cũng phải tự quyết định việc hỗ trợ nhóm đối tượng nào, mức hỗ trợ bao nhiêu (có thể là 20%, 40% hay 60%...) để ra phương án hỗ trợ cho phù hợp. Một khi địa phương đã xác định được số đối tượng, dự trù được ngân sách hỗ trợ thì việc triển khai chắc rằng không có gì là rào cản.

Để đẩy nhanh việc triển khai chính sách hỗ trợ vào đời sống, WB và nhiều tổ chức quốc tế khuyến cáo rằng, Chính phủ cần tăng mức hỗ trợ và cải thiện quá trình triển khai các chương trình hỗ trợ bằng tiền để tiếp cận nhiều hơn những hộ gia đình, người lao động ở khu vực phi chính thức, những người bị ảnh hưởng nhưng không có tên trong các cơ sở dữ liệu trợ giúp xã hội hiện hành. Gói hỗ trợ tới đây, Chính phủ cần bổ sung thêm các nhóm lao động bị ảnh hưởng và tăng thêm số tiền hỗ trợ cho các cá nhân. Tần suất hỗ trợ bằng tiền không nên giới hạn ở việc hỗ trợ một lần mà cần hỗ trợ trong nhiều tháng.

Thêm vào đó, ngoài việc thúc đẩy chính sách được triển khai hiệu quả, Việt Nam cũng cần chuẩn bị, củng cố hệ thống "phòng thủ" và tăng cường khả năng ứng phó nhanh; trước bất cứ tình huống xấu nào cũng đều có thể kích hoạt lập tức như xảy ra thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu hay môi trường… Điều quan trọng là bảo hiểm xã hội chính là hệ thống phòng thủ tự động, nên rất cần tập trung cắt giảm những vướng mắc, tồn đọng liên quan tới thủ tục hành chính để mọi đối tượng thụ hưởng đều nhận được sự hỗ trợ nhanh nhất có thể. Nghị quyết 68 nếu được triển khai nhanh và gọn, không chỉ đem lại kết quả tích cực, mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa cao tới những chính sách khác mà Chính phủ đang chủ trương thực hiện để cộng đồng xã hội và toàn nền kinh tế dốc sức vực dậy sau đại dịch.

_________

Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29.5.2020 của Chính phủ

Dương lê