Xây dựng hệ thống trợ giúp xã hội 2021 - 2030

Giải bài toán nguồn nhân lực

- Thứ Năm, 26/11/2020, 08:32 - Chia sẻ
Để phát triển công tác xã hội giai đoạn 2021 - 2030, nhiều ý kiến cho rằng, cần phải nâng cao số lượng và chất lượng nhân lực ngành công tác xã hội. Liệu Đề án phát triển công tác xã hội giai đoạn 2021 - 2030 có giải được bài toán đó?

Thiếu nguồn nhân lực

Tại Việt Nam, số người cần sự trợ giúp xã hội rất lớn, với hơn 11,4 triệu người cao tuổi, khoảng 2 triệu người hưởng trợ cấp người có công với cách mạng, 6,2 triệu người khuyết tật, hàng triệu người có vấn đề sức khỏe tâm thần, 2 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, có khoảng 3,75% số hộ nghèo, 4,55% số hộ cận nghèo, hơn 3,1 triệu đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, khoảng 2 triệu lượt hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất hàng năm. Ngoài ra, còn nhiều phụ nữ, trẻ em bị ngược đãi, mua bán, xâm hại hoặc lang thang kiếm sống trên đường phố.

Việt Nam là nước có số lượng đối tượng cần trợ giúp của các dịch vụ công tác xã hội lớn và để trợ giúp đối tượng yếu thế, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách từng bước ổn định và nâng cao đời sống cho các đối tượng. Đặc biệt, ngày 25.3.2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020, một mạng lưới các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội đã được hình thành nhiều nhất ở ngành lao động, thương binh và xã hội, tiếp theo là ở các ngành y tế, giáo dục, các hội, đoàn thể chính trị - xã hội…

Kết quả 10 năm thực hiện Đề án cho thấy, các tỉnh, thành phố từng bước tiếp tục phát triển các cơ sở có cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với người già, người tâm thần, bảo vệ trẻ em, trợ giúp người khuyết tật phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng trên cơ sở bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ và kiện toàn cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở.Tuy nhiên, theo Phó Cục trưởng Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Hà, các dịch vụ công tác xã hội hiện chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, nhân viên, cộng tác viên công tác xã hội còn mỏng, đa số được đào tạo từ ngành khác, thậm chí không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ.

Thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho thấy, hiện nay trên cả nước, đội ngũ công chức, viên chức, nhân viên và cộng tác viên làm công tác xã hội có khoảng 235.000 người, trong đó 35.000 công chức, viên chức và người lao động làm việc tại các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội công lập và ngoài công lập, gần 100.000 người làm việc tại các hội, đoàn thể các cấp; trên 100.000 cộng tác viên giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ trẻ em và phát triển cộng đồng…

Phản ánh của các địa phương cho thấy, một trong những nguyên nhân chính của chất lượng nguồn lực chưa được bảo đảm là do khuôn khổ pháp lý phát triển công tác xã hội chưa được hoàn thiện. Hiện văn bản liên quan đến vấn đề này chỉ nằm ở tầm văn bản hướng dẫn (thông tư, thông tư liên tịch...). Chính vì thế các vấn đề liên quan cấp, thu hồi, điều chỉnh giấy phép hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội và điều kiện thành lập, hoạt động và điều kiện giải thể cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội; quyền và nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ công tác xã hội chưa được xác định cụ thể trong hệ thống văn bản pháp luật…

Lớp học may ở làng Hữu nghị Việt Nam  

Nguồn: ITN 

Tháo gỡ thể chế

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đang xây dựng Dự thảo Đề án phát triển công tác xã hội giai đoạn 2021 - 2030 dự kiến trình lên Thủ tướng Chính phủ vào cuối tháng 11.2020. Xung quanh dự thảo này, đại diện các địa phương, bộ ngành đều nhất trí việc xây dựng đề án là cần thiết. Bởi từ thực tế triển khai cũng như khảo sát các nước trên thế giới và ngay cả với nhiều nước trong khu vực thì các quy định liên quan đến công tác xã hội ở Việt Nam còn một khoảng cách lớn.

Đơn cử, thiếu quy định pháp lý về phê duyệt, giám sát, cấp phép đào tạo công tác xã hội theo chuẩn nghề nghiệp, hay quy định pháp luật về thi sát hạch chuyên môn và cấp giấy phép hành nghề công tác xã hội… Đây là những nhân tố quan trọng trong việc hình thành nguồn nhân lực dành cho công tác xã hội. Trưởng Chương trình Bảo vệ Trẻ em UNICEF Việt Nam Lê Hồng Loan chia sẻ, kinh nghiệm quốc tế, nhân viên công tác xã hội là nguồn cán bộ chuyên môn nòng cốt của lực lượng cung cấp dịch vụ xã hội. Bên cạnh đó, còn có các lực lượng bán chuyên làm việc cùng hoặc hỗ trợ công việc cho nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp.  

Đồng tình với đề xuất cần có sự ưu tiên về đào tạo nguồn nhân lực, đại diện của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, ngành giáo dục có sự tham gia từ sớm trong việc phê chuẩn mã ngành đào tạo công tác xã hội năm 2004. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng phê duyệt đề án phát triển nghề công tác xã hội. Gần đây nhất, Thông tư 33/2019 đã quy định nhiệm vụ của nhân viên công tác xã hội trong trường học. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản chính thức được phê duyệt về vị trí hay mã số nghề nghiệp của nhân viên công tác xã hội trong lĩnh vực giáo dục, từ đó hạn chế việc phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực này. Chính vì vậy, để có thể xây dựng được nguồn nhân lực công tác xã hội cần có những tháo gỡ về cơ chế để việc đào tạo nguồn nhân lực công tác xã hội đạt hiệu quả.

Thái Yến