Những ánh sao khuê:

Giáo sư Hoàng Minh Giám - trí thức cả đời tận trung với nước

- Thứ Hai, 11/07/2022, 05:02 - Chia sẻ

NGUYỄN TÚC - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với GS. Hoàng Minh Giám là tháng 9.1960 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam. Lúc đó, ông là đại biểu chứ không phải khách mời, còn tôi cùng anh Đậu Ngọc Xuân và anh Trịnh Ngọc Thái[1] phụ trách khối phiên dịch Đại hội. Điều thắc mắc lớn nhất của tôi trong buổi gặp mặt đầu tiên, đó là tại sao ông lại được dự Đại hội với tư cách đại biểu, trong khi ông chưa bao giờ là đảng viên của Đảng theo sự hiểu biết của chúng tôi lúc đó?

Một trong những trí thức tiêu biểu nhất nước ta thế kỷ XX

Sau này, khi có nhiều dịp được làm việc với Giáo sư và các vị trong Đảng Xã hội, đặc biệt khi được phân công chuẩn bị Lời điếu, tôi hiểu thêm nhiều điều về cuộc đời và sự nghiệp của ông - một trong những trí thức tiêu biểu nhất của nước ta ở thế kỷ XX, trong đó có chuyện Giáo sư được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam từ ngày 8.6.1950.

GS. Hoàng Minh Giám sinh ngày 4.11.1904, tại xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Thân sinh là cụ Phó bảng Hoàng Tăng Bí - một nhà nho yêu nước, một trong những người sáng lập phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, hoạt động tích cực chống chủ nghĩa thực dân nên đã bị thực dân Pháp kết án tù biệt xứ, sau đó bị đưa về quản thúc ở Huế. Thời niên thiếu, chịu ảnh hưởng sâu sắc của thân phụ, GS. Hoàng Minh Giám sớm có tinh thần yêu nước. Khi còn học ở Quốc học Huế, ông đã tham gia bãi khóa phản đối một giáo sư người Pháp đối xử tàn tệ với học sinh và tham gia biểu tình đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, tổ chức truy điệu cụ Phan Chu Trinh trong thời kỳ học tại trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội.

Năm 1926 - 1927, ông dạy tại Trường Trung học Sisowath (Phnom Pênh, Campuchia). Cuối năm 1927, viện cớ “vì lý do sức khỏe”, ông viết đơn gửi cho Hiệu trưởng người Pháp xin thôi việc và trở về Sài Gòn dạy ở các trường tư thục.

Bị buộc tội “có tư tưởng chống Pháp” qua các bài viết trên báo tiếng Pháp, như “Tiếng chuông rè”, “L’annam”..., ông bị cấm dạy học ở Sài Gòn. Năm 1932, nhà giáo trẻ Hoàng Minh Giám trở về Hà Nội dạy cho trường tư thục Thăng Long. Năm 1935, ông cùng một số đồng nghiệp có tinh thần yêu nước, tiến bộ, như Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Nguyễn Dương, Nguyễn Cao Luyện... sáng lập trường tư thục Thăng Long và làm Hiệu trưởng cho đến Cách mạng tháng Tám thành công. Đây là trường có nhiều giáo sư giỏi, nhiều trí thức yêu nước tiến bộ và có nhiều học sinh hăng hái tham gia hoạt động cách mạng, nhiều người sau này trở thành cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ông tham gia Đảng Xã hội Pháp vào thời kỳ Mặt trận bình dân thắng lợi và khi Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập ngày 22.7.1946, ông là một trong những người đầu tiên được công nhận là đảng viên của Đảng.

Cách mạng tháng Tám thành công, theo chủ trương mở rộng Chính phủ Liên hiệp, theo Chỉ thị của Hồ Chủ tịch, đồng chí Võ Nguyên Giáp từ chiến khu trở về mời GS. Hoàng Minh Giám tham gia Chính phủ. Được Đảng tín nhiệm và Hồ Chủ tịch dìu dắt, GS. Hoàng Minh Giám đã trở thành một thành viên tin cậy trong chính quyền cách mạng. Từ tháng 8.1945 đến tháng 3.1946, ông giữ chức Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ của Chính phủ lâm thời. Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 6.1.1946, ông trúng cử đại biểu Quốc hội và được cử làm Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội Khóa I và sau đó liên tục được bầu làm đại biểu Quốc hội. Đến Khóa VII năm 1987, do tuổi cao sức yếu ông xin thôi không tham gia ứng cử.

Nhà ngoại giao tài năng, nhà hoạt động chính trị kiên định

Tháng 2.1947, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ, đồng thời là trợ lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc giao dịch với đại diện Pháp. Trước đó, ông đã góp phần tích cực vào việc ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6.3.1946. Ông tham gia Đoàn đại biểu Chính phủ ta tại Hội nghị Fontainebleau tháng 7 và tháng 8.1946, sau đó được cử làm Trưởng đoàn và là người trực tiếp giúp việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ký kết Tạm ước Việt - Pháp ngày 14.9.1946.

Năm 1946, ông là một trong những người sáng lập Đảng Xã hội Việt Nam và được cử làm Phó Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam. Tháng 11.1946, theo Chỉ thị của Hồ Chủ tịch, ông rời Pháp về nước tham gia Chính phủ và được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao (Bộ trưởng là Chủ tịch Hồ Chí Minh), sau đó được cử giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao cho đến năm 1954.

Sau Hiệp định Genève, tháng 8.1954, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền, sau đó đổi thành Bộ Văn hóa vẫn do ông làm Bộ trưởng và kiêm luôn Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Nhân dân khóa I.

Tháng 6.1976, ông được Quốc hội Khóa VI cử làm Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại.

Tại Đại hội thành lập MTTQ Việt Nam năm 1955, ông được cử tham gia Đoàn Chủ tịch và liên tục giữ cương vị đó cho đến ngày thống nhất đất nước.

Tại Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận trong cả nước tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh (từ ngày 31.1 - 4.2.1947), ông được cử vào Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và liên tục đảm nhận cương vị đó cho đến Đại hội lần thứ IV (năm 1994) và cũng chính tại khóa này IV, ông được cử làm Ủy viên danh dự Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.

Với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng, GS. Hoàng Minh Giám đã được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân, huy chương cao quý khác.

Là một nhà giáo, một trí thức yêu nước suốt đời vì dân, vì nước, suốt đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, GS. Hoàng Minh Giám là đại diện tiêu biểu cho sự chuyển biến của bộ phận trí thức yêu nước chân chính Việt Nam từ lập trường dân tộc sang lập trường XHCN.

Với gần 40 năm ở cương vị Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Phó Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam, GS. Hoàng Minh Giám đã góp phần tích cực vào việc tập hợp, đoàn kết những trí thức yêu nước, tiến bộ, củng cố và tăng cường khối Đại đoàn kết toàn dân, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Ông chính là người đặt nền móng trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Là một nhà ngoại giao tài năng, nhà hoạt động chính trị kiên định, GS. Hoàng Minh Giám đã góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước, làm sáng tỏ cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc tế và cô lập kẻ thù.

Mặc dù tuổi cao, sức yếu, những năm tháng cuối đời, ông vẫn nhiệt tình tham gia với tất cả tâm huyết vào sự nghiệp chung, chăm lo củng cố khối Đại đoàn kết dân tộc và để lại cho MTTQ Việt Nam, nhất là các Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ từng cộng tác những hình ảnh sống động của một trí thức tiêu biểu, cả đời “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.

____________

[1] Anh Đậu Ngọc Xuân sau là Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư; anh Trịnh Ngọc Thái sau này là Phó Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương, Đại sứ Việt Nam tại Pháp