Bảo hộ chỉ dẫn địa lý giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm

- Thứ Bảy, 11/05/2013, 08:35 - Chia sẻ
Theo thống kê, nước ta có gần 1.000 sản phẩm thuộc loại đặc sản nông nghiệp, nhưng hiện mới chỉ có 35 sản phẩm được đăng ký chỉ dẫn địa lý. Việc đăng ký chỉ dẫn địa lý không những tạo cơ hội về kinh doanh, thương mại, mà còn góp phần thúc đẩy quá trình văn minh hóa nông thôn và duy trì văn hóa truyền thống của các vùng, khu vực, quốc gia… Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với PHÓ CỤC TRƯỞNG CỤC SỞ HỮU TRÍ TUỆ, BỘ KH-CN TRẦN HỮU NAM.

Thanh long Bình Thuận đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý

- Việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý sẽ đem lại những cơ hội và có ý nghĩa như thế nào với các sản phẩm, hàng hóa, thưa ông?

- Ngoài các cơ hội về kinh doanh, thương mại, việc đăng ký chỉ dẫn địa lý còn có ý nghĩa rất quan trọng là góp phần thúc đẩy quá trình văn minh hóa nông thôn và duy trì văn hóa truyền thống của các vùng, khu vực, quốc gia. Đồng thời đăng ký chỉ dẫn địa lý cũng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng nông thôn, vùng khó khăn, vùng núi, cải thiện và nâng cao đời sống văn hóa, xã hội của người dân tại địa phương có sản phẩm được đăng ký.

- Một sản phẩm muốn được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở trong nước và ngoài nước cần đảm bảo những yêu cầu và tiến trình như thế nào, thưa ông?

- Tại Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) năm 2005 quy định: sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý phải có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý. Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định. Thời hạn đăng ký chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam quy định: trong thời hạn một tháng kể từ ngày nộp đơn, sẽ có thông báo chấp nhận đơn hợp lệ về thủ tục. Trong thời hạn 2 tháng kể từ ngày hợp lệ, đơn sẽ được công bố trên công báo sở hữu công nghiệp. Trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày công bố đơn sẽ có kết quả là có được bảo hộ hay không.

Còn ở nước ngoài, nếu đăng ký chỉ dẫn địa lý vào quốc gia hay khu vực nào phải đáp ứng điều kiện quy định của khu vực, quốc gia đó. Cần nghiên cứu, tìm hiểu tất cả những quy định của khu vực hoặc quốc gia đó trước khi nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý. Thời hạn đăng ký chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của hồ sơ. Ví dụ, chúng ta đã mất 3 năm để có thể đăng ký sản phẩm nước mắm Phú Quốc tại Cộng đồng châu âu. Mặc dù không mất phí đăng ký nhưng lại phải mất nhiều thời gian chuẩn bị và hoàn thiện hồ sơ theo quy định của Cộng đồng châu Âu.

- Được biết, chúng ta đang có hàng nghìn loại nông sản có khả năng đăng ký chỉ dẫn địa lý nhưng hiện mới chỉ có 35 sản phẩm đã được đăng ký chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam, trong đó có 3 chỉ dẫn đăng ký ở nước ngoài. Ông có thể cho biết những nguyên nhân nào dẫn đến hiện trạng này?

- Theo thông báo của các địa phương thì đúng là chúng ta đang có gần 1.000 sản phẩm nông sản, thủy sản, sản phẩm phi nông nghiệp, đồ uống có khả năng đăng ký là nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý. Nhưng các sản phẩm, đặc sản đó có được đăng ký chỉ dẫn địa lý hay không phải phụ thuộc vào sản phẩm đó có đáp ứng các điều kiện quy định của pháp luật. Hơn nữa, các quy định của pháp luật để công nhận chỉ dẫn địa lý không phải đơn giản như đăng ký một nhãn hiệu. Bởi vậy, tiềm năng thì nhiều nhưng không phải sản phẩm nào cũng có thể đáp ứng được các yêu cầu nên số lượng sản phẩm được đăng ký chỉ dẫn địa lý chưa nhiều.

Còn đăng ký chỉ dẫn địa lý tại nước ngoài, đúng là chúng ta có nhiều sản phẩm đáp ứng điều kiện hoặc đã được đăng ký tại Việt Nam nhưng chưa được quan tâm để có thể đăng ký chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài. Đây cũng là vấn đề cần phải nghiên cứu, hỗ trợ, thúc đẩy để các sản phẩm này được đăng ký chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài.

Con số nói trên đúng là chưa cao nhưng có thể nói tình hình đăng ký chỉ dẫn địa lý đang có chiều hướng tăng lên và nhận thức của cơ quan quản lý cũng như hiệp hội các nhà sản xuất, người dân ở các địa phương đã được nâng cao rất nhiều, họ cũng đã thấy được giá trị cũng như những lợi ích của việc đăng ký chỉ dẫn địa lý thông qua các chương trình truyền thông, trợ giúp của Nhà nước. Chúng tôi cũng hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều hơn nữa các sản phẩm được đăng ký chỉ dẫn địa lý. 

- Ngoài Chương trình 68, hiện có những chính sách, kênh hỗ trợ nào hỗ trợ việc bảo hộ và chỉ dẫn địa lý sản phẩm, thưa ông?

Nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề phát triển tài sản trí tuệ của địa phương, doanh nghiệp, các nhà sản xuất và kinh doanh. Chính phủ đã có Chương trình Hỗ trợ doanh nghiệp phát triển tài sản trí tuệ (gọi tắt là Chương trình 68) đã được triển khai theo 2 pha, mỗi pha 5 năm (2005 – 2010, 2010 – 2015) với khoản kinh phí rất lớn do Nhà nước hỗ trợ. Ngoài ra, Cục SHTT cũng có nhiều chương trình hỗ trợ như hội thảo, chuyên đề, hướng dẫn trực tiếp, tập huấn cho các địa phương, doanh nghiệp...

Cùng với hợp tác quốc tế về SHTT đang có rất nhiều tiến triển, nhất là trong lĩnh vực chỉ dẫn địa lý. Từ trước đến nay chưa có những dự án riêng về chỉ dẫn địa lý cho Việt Nam nhưng đến nay cũng đã có những dự án riêng. Ví dụ, dự án của Cơ quan Phát triển Pháp vừa được hai Chính phủ ký kết trong cuộc họp đối thoại cấp cao Việt Nam - Pháp lần thứ nhất tại Hà Nội tháng 4.2013. Dự án sẽ được triển khai trong giai đoạn 2013 - 2015, với kinh phí 800 ngàn euro. Ngoài ra còn có các thỏa thuận hợp tác song phương giữa Việt Nam - Pháp về SHTT.

Cộng đồng châu Âu cũng đã có những chương trình riêng hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển, quản lý các chỉ dẫn địa lý. Mới đây, Cộng đồng châu Âu và Cục SHTT đã phối hợp tổ chức một số hội thảo với nội dung tìm hiểu những quy định của bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Cộng đồng châu Âu, kinh nghiệm của những nhà sản xuất, quy định của pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Việt Nam, kinh nghiệm của các vùng, khu vực đã công nhận chỉ dẫn địa lý của Việt Nam như nước mắm Phú Quốc, cà phê Buôn Mê Thuột… Hoặc dự án của FAO trong việc phát triển chỉ dẫn địa lý của 4 nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan. Hay như dự án của Cơ quan phát triển Pháp trong việc phát triển chỉ dẫn địa lý cho 2 sản phẩm là hạt điều Huỳnh Phước và hạt tiêu Quảng Trị...

- Liên quan đến việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý, ông có khuyến nghị gì?

Việt Nam cũng có rất nhiều sản phẩm có thể đăng ký chỉ dẫn ở nước ngoài. Tuy nhiên, các nhà sản xuất, nhà quản lý hay hiệp hội các nhà sản xuất kinh doanh cũng chưa thực sự quan tâm đến điều này, vì các sản phẩm của Việt Nam đang được xuất khẩu với hình thức nguyên liệu là chủ yếu chứ chưa phải là sản phẩm hoàn chỉnh nên giá trị của sản phẩm chưa cao…

Thực tế, nếu những sản phẩm nông sản đã được công nhận là chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam và được bảo hộ tại nước ngoài thì sẽ có giá trị xuất khẩu rất lớn và không bị “lấy mất” thương hiệu, tranh chấp thương hiệu như một số sản phẩm của Việt Nam đang gặp phải. Và để đòi lại các thương hiệu này thì phải theo kiện rất tốn kém và không biết kết quả ra sao. Vì thế, ngoài sự trợ giúp của Nhà nước cũng như của các cơ quan quản lý của Nhà nước về các thủ tục, hướng dẫn quy định của pháp luật hay tập huấn, chương trình tìm hiểu, hướng dẫn địa phương để triển khai việc đăng ký chỉ dẫn địa lý, các doanh nghiệp, nhà sản xuất cũng phải có sự quan tâm để triển khai việc đăng ký chỉ dẫn địa lý của Việt Nam ở nước ngoài.

- Xin cảm ơn ông!

Nguyễn Hạnh thực hiện