“Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” - nguyên tắc nhất quán

Bài cuối: Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

- Thứ Tư, 22/12/2021, 10:32 - Chia sẻ
Các văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo dù được ban hành bằng hình thức nào, trong hoàn cảnh lịch sử nào cũng tuân thủ nguyên tắc “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” và hướng tới hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nguyễn Khắc Huy

Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Thanh tra,

Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Nội vụ

Từ Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo...

Ngày 18.6.2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XI đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (Pháp lệnh), có hiệu lực thi hành từ ngày 15.11.2004. Pháp lệnh có 6 chương, 41 điều, trong đó có 8 điều về nguyên tắc và 29 điều quy định cụ thể về hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo, cụ thể một số nội dung như: (1) Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau.

(2) Chức sắc, nhà tu hành và công dân có tín ngưỡng, tôn giáo được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân. Chức sắc, nhà tu hành có trách nhiệm thường xuyên giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật. (3) Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật; tôn trọng giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng nhằm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân.

Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên về tín ngưỡng, tôn giáo do UBTVQH ban hành, là dấu mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Nội dung của Pháp lệnh đã khẳng định tính nhất quán của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong việc thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Pháp lệnh quy định cụ thể hơn về quyền của người có tín ngưỡng, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, trách nhiệm của cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong việc xây dựng và thực hiện, giám sát thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; làm rõ nguyên tắc “lương giáo đoàn kết” bằng quy định các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, công dân có tín ngưỡng cũng như không có tín ngưỡng phải tôn trọng lẫn nhau.

... đến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo

Ngày 18.11.2016, Quốc hội Khóa XIV thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2018. Luật có 1 chương quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người, bao gồm cả người Việt Nam, người nước ngoài cư trú hợp pháp ở Việt Nam và những người bị hạn chế quyền công dân. Đây là một trong những điểm mới của Luật so với Pháp lệnh, cụ thể hóa quy định tại Điều 24 Hiến pháp 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người thay vì của công dân như quy định tại Hiến pháp 1992.

Một số nội dung cụ thể quy định trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo như sau: (1) Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. (2) Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. (3) Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo. (4) Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

(5) Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác. (6) Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.

(7) Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có quyền: Sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; sử dụng địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung; mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người Việt Nam thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo; vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam.

Ngoài những quy định mang tính nguyên tắc về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như trên, Luật Luật Tín ngưỡng, tôn giáo còn quy định cụ thể về hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân, về pháp nhân của tổ chức tôn giáo, về quyền tham gia các hoạt động xã hội. Đặc biệt, Luật đã quan tâm đến quyền được tập trung sinh hoạt tôn giáo không chỉ cho những người chưa có tổ chức tôn giáo mà còn bảo đảm cho tín đồ các tôn giáo ở những nơi chưa có tổ chức tôn giáo trực thuộc.

Các quy định của Luật đều hướng tới bảo đảm hơn nữa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bình đẳng trước pháp luật giữa các tôn giáo và giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau với người không có tín ngưỡng, tôn giáo.

Hơn 60 năm, kể từ Sắc lệnh số 234/SL ngày 14.6.1955 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng cho đến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua ngày 18.11.2016, các văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo dù được ban hành bằng hình thức nào, trong hoàn cảnh lịch sử nào cũng tuân thủ nguyên tắc “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” đã được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố từ ngày thành lập nước tháng 9.1945 và đều nhằm hướng tới hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.