Bảo đảm công bằng xã hội trong điều kiện hiện nay

Bài 2: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân...”

- Thứ Năm, 29/10/2020, 07:01 - Chia sẻ
Để thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay, vấn đề không chỉ là phân phối theo lao động gắn với cống hiến và hưởng thụ mà cần quan tâm phát triển xã hội toàn diện. Các giải pháp kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa phải có sự dính kết như các mắt xích trong hệ thống xã hội, lấy con người làm trung tâm, đúng như lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân".

TS. Bùi Sỹ Lợi Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội

Tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội

Qua gần 35 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, những quan điểm về các chính sách xã hội gắn với mục tiêu công bằng xã hội được bổ sung, phát triển qua từng giai đoạn gắn với các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc. Theo đó, tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng xã hội không chỉ được thực hiện trong phân phối kết quả sản xuất, mà còn được thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, ở việc tạo ra những điều kiện cho mọi người phát huy tốt năng lực của mình và thực hiện phân phối lại qua hệ thống chính sách xã hội. Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Quan điểm về chính sách xã hội giai đoạn đầu tập trung vào giải quyết các vấn đề xã hội cụ thể, bức xúc đang tồn tại. Tuy nhiên, đến Đại hội IX của Đảng, đặc biệt là Đại hội XII của Đảng, hệ thống chính sách xã hội đã xác định tập trung vào các nhóm chính sách lớn (y tế, giáo dục, văn hóa…), nhóm chính sách ưu đãi (chính sách người có công), nhóm chính sách an sinh xã hội (việc làm, bảo hiểm, trợ cấp xã hội), chính sách cho nhóm yếu thế (người nghèo, người khuyết tật, người cao tuổi, người có hoàn cảnh khó khăn…), trọng tâm là chính sách an sinh xã hội. Việc phát triển hệ thống chính sách an sinh xã hội gắn với mục tiêu phát triển bền vững, hướng tới công bằng xã hội và giảm thiểu bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư.

Việc hoàn thiện chính sách xã hội gắn với mục tiêu công bằng xã hội được thực hiện thông qua việc phát triển nguyên tắc phân phối. Đại hội VI của Đảng mới chỉ đề cập đến phân phối theo lao động và nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế. Đến Đại hội VII, Đảng ta làm rõ việc “thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”. Đại hội VIII bổ sung hình thức “phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”. Đại hội Đảng lần thứ IX, X và XI tiếp tục khẳng định các hình thức phân phối, song bổ sung phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội bên cạnh phân phối thông qua phúc lợi xã hội và bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu (giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin truyền thông). Đây là quan điểm nhằm tiếp tục đổi mới việc phân bổ nguồn lực cho hợp lý hơn.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một chủ trương lớn của Đảng, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Kế thừa kết quả đạt được qua các kỳ đại hội, Đại hội XII của Đảng tiếp tục đề cập một cách toàn diện và có hệ thống về vấn đề này, tạo động lực cho sự phát triển và thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Để thực hiện công bằng xã hội, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã coi mục tiêu giải phóng các năng lực của con người, trong đó có năng lực cá nhân và việc thiết lập khối đại đoàn kết dân tộc và quốc tế là những điều kiện tạo ra sự phát triển công bằng bền vững. Trong đó, chú ý đến lao động, đến sự phân phối theo lao động, sự tương quan giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp, giữa thời gian lao động tất yếu và lao động tự do, giữa lao động và nhu cầu, giữa sở hữu lao động và thành quả lao động nhằm tạo cho các cá nhân sự hứng thú trong lao động và làm cho lao động trở thành nhu cầu bên trong của cá nhân. Chính quá trình này sẽ tạo nên mối quan hệ mới giữa cống hiến và hưởng thụ - cơ sở quan trọng để tạo ra sự phân phối công bằng.

Hiện nay, để thực hiện sự công bằng xã hội, chúng ta đang chú ý đến giải pháp dân chủ hóa. Chúng ta chấp nhận những luật chơi chung khi tham gia APEC, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới nhằm thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ hơn nữa, nhưng chúng ta không chấp nhận sự tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội là sự tăng trưởng bền vững mà chúng ta đã và đang lựa chọn. Để thực hiện công bằng xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế, chúng ta đang xây dựng cơ chế và thiết chế dân chủ theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.”

Đnhân dân đưc hưng thụ thành quả phát triển

Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu công bằng xã hội trong điều kiện hiện nay, trưc hết, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, tạo hành lang pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội với các trụ cột cơ bản (phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro) nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hiến định trong một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. 

Thứ hai, mục tiêu phát triển xã hội bền vững để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải được thực hiện thông qua các giải pháp quản lý phát triển xã hội hiệu quả để giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, phân hóa giàu nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững nhằm khắc phục từng bước sự mất cân đối về cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề, dân tộc, tôn giáo; kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, để bảo đảm mọi người dân đều được tự do, bình đẳng cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện.

Thứ ba, thực hiện công bằng xã hội là sự gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội.   

Thứ tư, thực hiện các cơ hội bình đẳng để giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động thì Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, cơ chế và giải pháp tích cực để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng tỷ trọng lao động khu vực chính thức; nâng cao chất lượng nguồn lao động của đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ năm, hoàn thiện chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, người lao động và cơ quan, doanh nghiệp. Chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế. Mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính sách an sinh xã hội đa tầng. Đây là một trong những chỉ báo quan trọng của một xã hội công bằng và văn minh.

Thứ sáu, bảo đảm tốt an sinh xã hội. Nhà nước cân đối khả năng, huy động các nguồn lực, ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2021 - 2026 để bảo đảm bố trí kinh phí thực hiện hàng năm cho các chương trình mục tiêu quốc gia; xem xét cân đối khả năng ngân sách để tiếp tục thực hiện việc nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp, cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Điều chỉnh chuẩn nghèo đa chiều phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hôi và hội nhập quốc tế bảo đảm tiếp cận mức sống tối thiểu của nhân dân. Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản (nhà ở, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin truyền thông và việc làm). Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền, dân tộc.

Cuối cùng, nhất quán quan điểm của Đảng về bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe và tầm vóc con người Việt Nam trên cơ sở khẳng định nền y tế Việt Nam có tính chất: “Vì dân, của dân, do dân” với phương châm: “Công bằng, hiệu quả và phát triển”; trên nền y tế dựa trên cơ sở bảo hiểm y tế, lấy tiêu chí đánh giá hiệu quả của nền y tế “tiếp cận là hàng đầu”. Đặc biệt, phải nhấn mạnh tiêu chí: “Không được gây ra nghèo hóa người dân thông qua các khoản chi phí cao, bất hợp lý trong khám chữa bệnh”. Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế. Phát triển nền y học khoa học, dân tộc và đại chúng. Bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe.

Đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển; phòng bệnh hơn chữa bệnh; chuyển từ cơ chế đầu tư tài chính cho cơ sở y tế sang hỗ trợ trực tiếp cho người dân thông qua bảo hiểm y tế và tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Cùng với đó là bảo đảm để mọi người dân có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng; bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế tư nhân, thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực y tế; bảo đảm sự quản lý, điều tiết và đầu tư thích hợp của Nhà nước trong lĩnh vực này phù hợp với sự phát triển xã hội, có chính sách hỗ trợ cần thiết đối với người nghèo và các đối tượng khó khăn.

Quỳnh Chi ghi