Sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ:

Yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập

- Thứ Sáu, 22/10/2021, 06:39 - Chia sẻ
Tại phiên họp toàn thể của Quốc hội tại hội trường chiều qua, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt trình bày Tờ trình về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ. Trao đổi với Báo Đại biểu Nhân dân, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ HUỲNH THÀNH ĐẠT nhấn mạnh, việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ là yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập.

Tiếp thu ý kiến của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tại Phiên họp thứ 3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc xem xét, bổ sung nội dung chuyển đổi số; thủ tục đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp trực tuyến, tra cứu khả năng bảo hộ trực tuyến, tra cứu cơ sở dữ liệu nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp trực tuyến… Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục rà soát và nghiên cứu để có thể đề xuất Chính phủ xem xét, sửa đổi thêm các quy định về vấn đề thông tin sở hữu công nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho việc khai thác thông tin của xã hội.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ HUỲNH THÀNH ĐẠT

- Xin Bộ trưởng cho biết một số điểm mới của dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi) trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ Hai này?

- Trước hết phải khẳng định việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ là yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Điều này đã được thể hiện trong các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa để chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học và công nghệ (KH - CN), đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng hiện nay với việc Việt Nam tham gia nhiều điều ước quốc tế, trong đó đòi hỏi nâng cao đáng kể mức độ bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, điển hình là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). Những cam kết quốc tế này phải được nội luật hóa thông qua sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ.

Nội dung sửa đổi sẽ tập trung vào 7 nhóm chính sách lớn gồm: Bảo đảm quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền; Khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách nhà nước; Tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký và xác lập quyền; Bảo đảm mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng; Tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về SHTT; Nâng cao hiệu quả của hoạt động thực thi quyền SHTT; và Bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập.

- Đối với các tài sản trí tuệ hình thành từ các nhiệm vụ KH-CN sử dụng ngân sách nhà nước, lợi ích của người có bằng sáng chế và lợi ích nhà nước được bảo đảm tính công bằng ra sao trong việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ lần này, thưa Bộ trưởng?

- Các đề xuất sửa đổi được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc trao quyền đăng ký tự động và không bồi hoàn để sau đó các tổ chức chủ trì nhiệm vụ KH - CN sử dụng ngân sách nhà nước trở thành chủ văn bằng bảo hộ đối với các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và thiết kế bố trí sẽ tạo động lực rất lớn cho các tổ chức này thực hiện các thủ tục xác lập quyền sớm nhất cũng như thực hiện các biện pháp để bảo vệ, khai thác các tài sản này. Với tư cách là chủ văn bằng bảo hộ, tổ chức chủ trì sẽ có quyền sở hữu, sử dụng, cho phép người khác sử dụng, ngăn cấm... Trên cơ sở các quyền, tổ chức chủ trì có thể chủ động khai thác, chuyển giao quyền hay hợp tác với doanh nghiệp để thương mại hóa thu lợi nhuận và các lợi ích khác.

Khi các hoạt động chuyển giao công nghệ, thương mại hóa sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được thúc đẩy thì Nhà nước thu được thuế từ hoạt động này; đồng thời bảo đảm thực hiện được các mục tiêu chính sách như tạo ra việc làm cho Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.

- Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, nhất là với những nước phát triển, đem lại điều gì cho Việt Nam trong việc phát huy các lợi ích từ thực thi quyền SHTT, thưa Bộ trưởng?

- Cơ chế bảo hộ quyền SHTT vốn dĩ được coi là một công cụ để khuyến khích, thúc đẩy sáng tạo, đổi mới, chống cạnh tranh không lành mạnh để đưa các sản phẩm sáng tạo, đặc biệt là công nghệ mới nhằm phát triển kinh tế, phục vụ đời sống xã hội. Do đó, đáp ứng cam kết về SHTT trong các FTA thế hệ mới với một chế độ bảo hộ quyền SHTT cao, bên cạnh việc góp phần tạo ra một môi trường tốt có khả năng thu hút chuyển giao công nghệ của nước ngoài để nâng cao chất lượng sản phẩm quốc nội, tạo điều kiện từng bước nâng cao năng lực công nghệ nội sinh, còn tạo thuận lợi cho cả doanh nghiệp Việt Nam trong việc hưởng lợi ích đối với thành quả đầu tư cho hoạt động sáng tạo, cụ thể là: quyền được bảo hộ rộng hơn, dễ dàng hơn; thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp minh bạch, công bằng và hợp lý hơn… Việc thực thi một cách có hiệu quả các cam kết có lợi ích là việc các hành vi xâm phạm sẽ được xử lý nghiêm minh hơn, tạo dựng lòng tin về một môi trường kinh doanh lành mạnh và cạnh tranh hơn.

Tuy nhiên, cơ hội, lợi ích cũng luôn đi kèm thách thức, khó khăn. Việc tận dụng cơ hội, giảm thiểu thách thức hay cao hơn là biến thách thức trở thành cơ hội là công việc cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức khác. Có như vậy, Việt Nam mới có thể thực sự hưởng lợi ích từ nỗ lực hội nhập.

- Xin cảm ơn Bộ trưởng!

NHẬT ANH thực hiện