Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu lao động

Vai trò người cầm lái

- Thứ Sáu, 12/06/2020, 15:36 - Chia sẻ
Trong hoạt động xuất khẩu lao động (XKLĐ), Nhà nước đóng vai trò như người cầm lái con thuyền, còn các tổ chức, doanh nghiệp dịch vụ XKLĐ có chức năng là người bơi chèo. Với vai trò là người cầm lái, nhà nước phải có một tầm nhìn bao quát, nhìn nhận các vấn đề trong tổng thể, cân đối nhu cầu trong nước, nắm bắt được diễn biến và dự báo được khả năng của thị trường lao động thế giới cũng như của khu vực trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó tìm ra những giải pháp tối ưu để thực hiện mục tiêu. Điều này được thể hiện trước tiên thông qua việc hoạch định chính sách để định hướng cho toàn bộ hoạt động XKLĐ của một quốc gia và có tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động XKLĐ.

Philippines

Chính phủ Philippines ngay từ đầu đã nhìn thấy những tiềm năng to lớn của nước mình đối với hoạt động XKLĐ cũng như những lợi ích đa chiều của nó nên đã xây dựng một chương trình hành động cụ thể, theo đó khuyến khích XKLĐ dựa trên nguyên tắc: việc XKLĐ của Philipines do Chính phủ quản lý và giúp đỡ, nhà nước chỉ khuyến khích việc đi lao động có thời hạn và không khuyến khích việc ở lại định cư tại nước ngoài.

Cụ thể, năm 1974, hoạt động làm việc ở nước ngoài được đưa vào Luật Lao động của Philipines. Việc tuyển dụng và đưa lao động ra nước ngoài làm việc được cả các cơ quan của nhà nước và những tổ chức tư nhân đảm trách. Từ năm 1987 Chính phủ Philipines đã phải thúc đẩy Cục Việc làm ngoài nước (POEA) hoạt động tích cực hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động Philipines ở nước ngoài. Quyền lợi của người lao động Philippines khi làm việc ở nước ngoài được bảo đảm hơn khi Chính phủ Philipines nhanh chóng phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của người lao động xuất khẩu.

Trong Kế hoạch Phát triển kinh tế công bố năm 2001, Chính phủ Philipines tuyên bố người lao động ở nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực đất nước, đồng thời cũng phác thảo chiến lược nhằm phát triển thêm XKLĐ. Chính phủ Philipines tìm cách tiếp cận, mở cửa những thị trường để XKLĐ bằng con đường chính thức và cố gắng ngăn chặn công dân nước mình đi lao động bằng những con đường bất hợp pháp. Để đi lao động ở nước ngoài, công dân Philipines phải được một cơ quan của nhà nước hay một đại lý tư nhân hợp pháp tuyển dụng hoặc họ phải có hợp đồng lao động “độc lập” được Cục Việc làm ngoài nước xem xét duyệt. Chính phủ ngăn cấm công dân ở lại nước ngoài làm việc quá thời hạn visa nhập cảnh cho phép. Cơ quan lao động cũng lập danh sách những người vi phạm để loại họ ra khỏi danh sách duyệt xét những hợp đồng lao động mới. Chính phủ khuyến khích người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo con đường hợp pháp thông qua hình tổ chức một ngày lễ được tổ chức hàng năm lấy tên là Ngày lao động xuất khẩu. Vào ngày này, Tổng thống Philipines sẽ trao phần thưởng “Baygong Bayani” (Anh hùng thời hiện đại) cho 20 lao động di dân xuất sắc nhất về đạo đức, lao động và thành tích gửi tiền về quê hương.

Với những chính sách trên, Philippines đã trở thành nước XKLĐ lớn đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Mexico.

Thái Lan

Chính sách XKLĐ của Thái Lan có thể chia thành ba giai đoạn chính: Giai đoạn 1, từ khi bắt đầu XKLĐ năm 1973 cho đến năm 1983, trong giai đoạn này về cơ bản nhà nước chưa có chính sách cho XKLĐ. Giai đoạn 2, từ sau năm 1983 cho đến trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính năm 1997 - 1998, trong giai đoạn này các chính sách chỉ mới tập trung chủ yếu vào việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. Giai đoạn 3, từ sau năm 2000 đến nay, đây là giai đoạn thể hiện sự quan tâm nhiều hơn của nhà nước đến chính sách XKLĐ. 

Phân tích chặng đường hình thành chính sách XKLĐ của Thái Lan cho thấy Chính phủ đã ban hành các chính sách không chỉ nhằm mục đích bảo vệ người lao động mà còn có các chính sách nhằm giúp người Thái Lan ngày càng có nhiều cơ hội đi lao động nước ngoài. Bên cạnh đó, nhà nước cũng bắt đầu chú ý đến các lợi ích đa chiều khi tiến hành XKLĐ. Đó là, lợi ích cho bản thân người đi XKLĐ, lợi ích cho nhà nước, cho xã hội, lợi ích cho các tổ chức, cá nhân tham gia XKLĐ.

Indonesia

Trong khi đó, tại Indonesia, ngay từ đầu đã không có một hệ thống chính sách XKLĐ chặt chẽ nên trong các khâu tiếp theo Chính phủ hầu như không kiểm soát được và thả lỏng thị trường XKLĐ cho các tổ chức môi giới trung gian hoành hành, hậu quả là người lao động Indonesia phải gánh chịu những thiệt thòi khi ra nước ngoài làm việc và nhà nước mất một khoản thu lớn từ hoạt động này.

Những văn bản pháp lý liên quan đến vấn đề gửi lao động Indonesia ra nước ngoài được biết đến trong thời gian là thuộc địa của Hà Lan là một số sắc lệnh của chính quyền thực dân Hà Lan, ban hành vào những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, trong khuôn khổ những ký kết với Chính phủ Anh về việc cung cấp lao động cho các công trình của thực dân Anh ở Malaysia và Singapore. Phải đến những năm cuối của thập kỷ 70 thế kỷ XX Chính phủ Indonesia mới bắt đầu lên chương trình XKLĐ, nhưng tất cả các văn kiện pháp luật liên quan đến lao động di dân được ban hành chỉ ở cấp Bộ. Đến năm 1988 Nghị định số 5 do Bộ Lao động Indonesia ban hành quy định các thủ tục phải tiến hành khi gửi người lao động ra nước ngoài trong bối cảnh khối lượng lao động di dân Indonesia ra nước ngoài gia tăng quá nhanh. Cùng trong thời gian đó, Nghị định số 1307 công bố các yêu cầu về kỹ thuật đối với lao động di dân Indonesia đến Ả Rập Xêút. Về thực chất thì các chính sách này không có thay đổi gì khác so với thời thuộc địa. Có thể nói hoạt động XKLĐ của Indonesia chỉ thực sự được chú ý vào những năm cuối thập kỷ 80 và XKLĐ được xem như một loại xuất khẩu hàng hóa không dầu (non-oil) được nhà nước khuyến khích người lao động tham gia. Tuy nhiên, sự yếu kém của hệ thống tổ chức và quản lý nhà nước về XKLĐ lại làm cho thị trường lao động trở nên phức tạp hơn. Mạng lưới XKLĐ bất hợp pháp ngày càng lấn át và hậu quả là người lao động trở thành những nạn nhân trực tiếp.

Quốc Đạt