Thực hiện hữu hiệu đột phá về cải cách thể chế

- Thứ Tư, 30/09/2020, 06:39 - Chia sẻ
Tại Diễn đàn thường niên về Cải cách và Phát triển Việt Nam 2020 (VRDF 2020) với chủ đề “Việt Nam: Hành động để phục hồi tăng trưởng nhanh theo hướng bền vững và bao trùm trong bối cảnh đại dịch Covid - 19” sáng 29.9, các đại biểu cho rằng, nhờ kiểm soát tốt đại dịch, Việt Nam vẫn hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Tuy vậy, để tận dụng được các cơ hội, Việt Nam cần thực hiện hữu hiệu đột phá về cải cách thể chế.

Độ mở lớn nhưng tỷ lệ nội địa hóa vẫn thấp

TS. Victoria Kwakwa, Phó Chủ tịch phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, trên bình diện toàn cầu, cuộc khủng hoảng Covid-19 đã có tác động tiêu cực chưa từng có đối với đời sống y tế, kinh tế và xã hội. Mức độ tác động này có sự khác nhau đáng kể giữa các quốc gia, phần lớn do hiệu lực ứng phó của các Chính phủ. “Việt Nam đã làm đặc biệt tốt trong việc nhanh chóng ngăn chặn đại dịch và hạn chế tác động tiêu cực đến nền kinh tế”.

Nguồn: ITN

Việt Nam sắp đón Tết Trung thu. Công thức bánh Trung thu thành công của Việt Nam là: Khu vực tư nhân sôi động và sáng tạo có mối liên kết chặt chẽ với FDI (P), các thể chế hữu hiệu (I) và giáo dục có chất lượng (E). Khi làm được như vậy, tất cả mọi người đều nhận được phần bánh công bằng. Việt Nam đã làm rất tốt trong quá khứ, Việt Nam có thể làm thậm chí còn tốt hơn trong tương lai.

TS. Victoria Kwakwa, Phó Chủ tịch phụ trách khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới

Cũng theo bà Kwakwa, nhìn vào sự phát triển của kinh tế Việt Nam thời gian qua cho thấy “Việt Nam vẫn có khả năng chống chịu trong thời kỳ đại dịch”. “Việt Nam đã phát triển cực kỳ tốt trong giai đoạn sau khủng hoảng toàn cầu 2009 - 2017 với tốc độ tăng trưởng cao nhất về giá trị chuỗi cung ứng toàn cầu, nằm trong Top 5 quốc gia có tốc độ tăng vốn FDI cao nhất. Đặc biệt, Việt Nam đã thành công trong việc hội nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu chế biến chế tạo nhẹ, thúc đẩy tăng trưởng và gia tăng việc làm”.

Tuy vậy, “vẫn còn dư địa đáng kể để tiếp tục cải thiện”, chuyên gia của WB nhận định. Cụ thể, mức độ tham gia của Việt Nam vào các chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực vẫn còn hạn chế. “Mặc dù là một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới, mức độ tham gia của Việt Nam vào các chuỗi giá trị toàn cầu vẫn thấp hơn so với các nước cùng khối ASEAN như Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Philippines. Bên cạnh đó, mức độ tham gia vào các công đoạn tinh vi phức tạp vẫn còn thấp”, bà nói.

Chuyên gia kinh tế trưởng WB tại Việt Nam Jacques Morisset bổ sung, dù Việt Nam đã thể hiện là một “quốc gia thông thái” khi “kiểm soát rất tốt” đại dịch Covid-19, qua đó thu hút các nhà đầu tư; thúc đẩy tốt thương mại điện tử, thanh toán điện tử và Chính phủ điện tử; ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do; độ mở nền kinh tế cao gấp 1,5 lần Thái Lan và 5 lần Trung Quốc song cũng đang đối mặt với nhiều điểm yếu.

Cụ thể, mức độ nội địa hóa thấp (thấp hơn 2 lần so với Trung Quốc) và có xu hướng giảm dần theo thời gian. Thứ nữa, tập trung quá mức vào một số thị trường, sản phẩm, doanh nghiệp. Minh chứng là 4 sản phẩm hàng đầu (dệt may, điện tử, hóa chất và kim loại) chiếm tới 2/3 kim ngạch thương mại trong chuỗi giá trị toàn cầu; 4 thị trường lớn nhất (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ) chiếm tới 60% kim ngạch thương mại. Ngoài ra, rào cản gia nhập của khu vực dịch vụ khi luồng vốn FDI thấp và thương mại dịch vụ thấp (trừ du lịch).

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thừa nhận, trong bối cảnh dịch Covid - 19, nền kinh tế đạt được những thành tựu “đáng tự hào” như vẫn tăng trưởng dương trong 6 tháng đầu năm; tính đến ngày 20.8, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 19,54 tỷ USD, bằng 86,3% so với cùng kỳ năm 2019… Tuy vậy, khó khăn, thách thức trong thời gian tới không nhỏ, bởi đại dịch Covid-19 vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Mặt khác, Việt Nam cũng phải đối mặt với những hạn chế, yếu kém nội tại của một nền kinh tế đang phát triển với mức thu nhập trung bình thấp, tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào vốn, lao động giá rẻ và khu vực đầu tư nước ngoài.

Trong ngắn hạn, “vấn đề đặt ra là cần nhanh chóng phục hồi tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, tận dụng hiệu quả các cơ hội phát triển xuất hiện từ khi xảy ra đại dịch Covid-19”, người đứng đầu ngành kế hoạch và đầu tư nói.

Tối ưu hóa sử dụng thay vì thu hút FDI

Trong bối cảnh hiện nay, khi “thế giới đang phải đối mặt với cú sốc lớn nhất kể từ sau Thế chiến thứ Hai", Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam Carolyn Turk cho rằng, thách thức đối với Việt Nam là không nhất thiết thu hút nhiều vốn FDI mà phải tối ưu hóa sử dụng FDI, chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực. “Việt Nam đã bắt tay vào chuyển đổi số và có thể cần làm nhiều việc hơn thế nữa. Chính phủ phải đẩy mạnh quá trình này thông qua Đề án Dịch vụ công Quốc gia, xây dựng cở sở dữ liệu, xây dựng hệ sinh thái bao trùm”, bà Carolyn Turk nói.

TS. Jonathan Pincus, Cố vấn quốc tế cao cấp, Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) nhìn nhận, Việt Nam vẫn hấp dẫn đối với các công ty đa quốc gia đang tìm kiếm các nền tảng xuất khẩu chi phí thấp do tiền lương ở Trung Quốc tăng lên và tranh chấp thương mại với Hoa Kỳ gia tăng. Ông nêu rõ, FDI mang lại lợi ích nhưng cũng kéo theo chi phí. Do đó, nhu cầu của Việt Nam là tăng cường năng lực của các doanh nghiệp trong nước nhằm thu được giá trị gia tăng từ các nhà xuất khẩu có vốn FDI. Việt Nam cần tập trung xây dựng chính sách công nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng để xây dựng năng lực trong các ngành tăng trưởng bền vững.

Theo các chuyên gia, hiện Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ từ công nghệ. Các đột phá công nghệ đã, đang và sẽ giảm nhu cầu về lao động kỹ năng thấp trong ngành chế biến chế tạo. Bằng chứng là trên thế giới, từ năm 1990 đến nay, thâm dụng lao động trong ngành điện tử đã giảm một nửa. Do vậy, Việt Nam cần chú trọng hơn đến tác động của chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo đó, Việt Nam cần ưu tiên tập trung vào 5 giải pháp trong dài hạn. Thứ nhất, lao động có kỹ năng (thúc đẩy giáo dục và đào tạo sau trung học do Việt Nam cần lực lượng lao động với năng suất tốt hơn). Thứ hai, tập trung vào công nghệ mới, nghiên cứu và phát triển (R&D), nhưng trên hết là bắt kịp về công nghệ thông qua nắm bắt công nghệ mới từ các nhà đổi mới sáng tạo toàn cầu. Thứ ba, cần kết nối Việt Nam với các thị trường toàn cầu nhưng cũng cần cải thiện liên kết giữa các doanh nghiệp tại Việt Nam. Thứ tư, mở cửa dịch vụ thông qua việc xóa bỏ các rào cản gia nhập và sự thiên vị dành cho doanh nghiệp nhà nước, qua đó nâng cao cạnh tranh và giúp dần cải thiện năng suất cũng như thương mại hàng hoá. Thứ năm, quan tâm đến khả năng chống chịu của môi trường để ứng phó với biến đổi khí hậu và cải thiện điều kiện sống.

Bà Kwakwa cho rằng, Việt Nam cần chuẩn bị tốt cho việc phục hồi mạnh mẽ và tận dụng các cơ hội mới xuất hiện. Trong dài hạn, Việt Nam cần thu hẹp khoảng cách về năng suất và tiến tới giới hạn về năng suất. “Việt Nam cần nhấn mạnh vào phát triển kỹ năng và xây dựng năng lực R&D, cũng như thực hiện hữu hiệu đột phá về cải cách thể chế”.

Đan Thanh