Bạn đọc viết:

Sự thận trọng cần thiết

- Thứ Sáu, 26/06/2020, 07:03 - Chia sẻ
Mặc dù, được các công ty công nghệ đề xuất thực hiện từ năm 2017, song mobile money - hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trên nền tảng điện thoại di động - vừa mới được Chính phủ chỉ đạo thí điểm thực hiện.

Sau hơn 10 năm dịch vụ này ra đời trên thế giới, đến tháng 11.2019 lần đầu tiên khái niệm mobile money được nhắc tới tại Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 101/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt. Vào thời điểm đó, Dự thảo được kỳ vọng sẽ mở cánh cửa cho dịch vụ này phát triển tại Việt Nam. Tuy nhiên, phải đến tháng 3.2020, khi Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước trình ngay quyết định cá biệt về thí điểm mobile money; và mới đây nhất tại Nghị quyết số 84/NQ-CP 2020 về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ban hành ngày 29.5.2020, Thủ tướng chính thức yêu cầu cấp phép triển khai thí điểm mobile money, thì vấn đề này mới nhận được sự quan tâm.

Trên thực tế, việc thực hiện thí điểm mobile money không chỉ được giới doanh nghiệp đón chờ, mà nó đã nhận được sự đồng tình của nhiều chuyên gia pháp lý, ngân hàng khi số thuê bao di động hiện đã vượt quá dân số. Theo đó, năm 2019, Việt Nam có khoảng 129,5 triệu thuê bao và theo thống kê của Hiệp hội Thông tin di động thế giới (GSMA), mobile money có mặt tại 90 quốc gia đã phục vụ khoảng 870 triệu tài khoản, doanh số giao dịch mỗi ngày bình quân 1,3 tỷ USD.

Có thể thấy, để thực hiện thí điểm thì không chỉ doanh nghiệp viễn thông cần nhanh chóng hoàn thiện việc chuẩn hóa thông tin thuê bao di động, định danh khách hàng, kiểm soát sim rác… mà Ngân hàng Nhà nước cũng sớm hoàn thiện Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 101/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt. Thực tế cho thấy cơ quan quản lý cũng rất thận trọng trong vấn đề triển khai hình thức thanh toán này. Đơn cử như về hạn mức thanh toán, các nhà mạng đề xuất tối đa 30 triệu đồng/tháng, nhưng trong Đề án thí điểm lần đầu tiên, Ngân hàng Nhà nước chỉ đề xuất 5 triệu đồng/tháng và hiện đã nâng hạn mức lên nhưng cũng mới dừng lại ở 10 triệu đồng/tháng.

Đặc biệt, việc nạp tiền sẽ thực hiện thông qua các điểm nạp, rút tiền mặt và tài khoản ngân hàng, không chấp nhận nạp thẻ cào để tránh phát sinh một số nguy cơ khó kiểm soát như rửa tiền hay các hoạt động bất hợp pháp khác. Ngoài ra, doanh nghiệp viễn thông cũng phải đáp ứng một số tiêu chí khác do Ngân hàng Nhà nước đưa ra như về vốn điều lệ; quy trình nghiệp vụ kỹ thuật; cơ chế bảo đảm khả năng thanh toán (cơ chế mở và duy trì số dư tài khoản bảo đảm thanh toán, mục đích sử dụng tài khoản bảo đảm thanh toán; quy trình an toàn, bảo mật...). Đây là sự thận trọng cần thiết. 

Liên quan đến vấn đề này, hiện trên thế giới có 2 mô hình quản lý mobile money, nổi bật là mô hình nhà điều hành mạng di động (Mobile network operator - MNO) và mô hình quản lý kiểu ngân hàng (Bank Led Model - BLM). Từ những đề xuất tại Dự thảo của cho thấy, cơ quan quản lý có xu hướng nghiêng về mô hình BLM hơn. Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi môi trường pháp lý cho mobile money hoạt động tại Việt Nam còn chưa hoàn thiện, đồng bộ. Hơn nữa, Việt Nam chưa hoàn thiện việc cấp mã công dân cũng như các quy định về giao dịch ẩn danh và cho phép nhà cung cấp dịch vụ linh hoạt thiết lập các yêu cầu về định danh tối thiểu. Mặt khác, nếu tài khoản tiền di động chỉ được định danh qua số thuê bao khách hàng tại công ty viễn thông, trong khi tình trạng sim rác chưa xử lý được thì sẽ không loại trừ đây trở thành kênh rửa tiền, lúc đó cơ quan quản lý khó có thể kiểm soát được. Để có thể bảo đảm sự an toàn trong giao dịch bằng mobile money, nhiều chuyên gia cho rằng, bên cạnh giải quyết những vấn đề nêu trên, Chính phủ cần sớm chủ trì việc xây dựng cơ sở hạ tầng xác thực khách hàng, bảo đảm sự bảo mật, an toàn khi giao dịch. 

 

Nguyễn Minh