Quốc gia nào sẽ trở thành công xưởng của thế giới?

- Thứ Bảy, 30/05/2020, 08:26 - Chia sẻ
Hơn 50 công ty đa quốc gia đã quyết định chuyển sản xuất (một phần hoặc toàn bộ) sang các quốc gia châu Á có chi phí thấp, chủ yếu là Ấn Độ và Việt Nam. Ấn Độ đã nắm lấy thời cơ này triển khai nhiều chính sách hấp dẫn các nhà đầu tư. Các chuyên gia đánh giá, Ấn Độ sẽ dẫn đầu và nổi lên như là điểm đến ưa thích của các nhà đầu tư trong 2 - 3 năm tới.

Trong hơn hai thập kỷ qua, Trung Quốc đóng vai trò là trung tâm sản xuất toàn cầu của các công ty đa quốc gia trong nhiều ngành như điện tử, dệt may, thiết bị y tế và ô tô. Tuy nhiên, thời gian gần đây chi phí lao động tăng, cũng như căng thẳng của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung năm 2019 đã ảnh hưởng đến vị thế của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đại dịch Covid-19 càng làm trầm trọng thêm tình hình. Trong bối cảnh đó, Ấn Độ và Việt Nam đang nổi lên là ứng cử viên thay thế Trung Quốc trở thành công xưởng của thế giới.

Sáng kiến ​​thu hút FDI

Ấn Độ đang làm việc tích cực để thu hút các công ty sản xuất toàn cầu. Các bang Uttar Pradesh, Tamil Nadu và Karnataka vừa thành lập đội đặc nhiệm xúc tiến đầu tư đặc biệt và thực hiện các chương trình giải phóng mặt bằng nhanh để thu hút các công ty Mỹ. Chính phủ Ấn Độ cũng đang phát triển quỹ đất rộng 461.589ha, lớn gần gấp đôi Luxembourg, để thu hút doanh nghiệp.

Năm 2019, Ấn Độ là một trong 10 quốc gia tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng trị giá 49 tỷ USD, tăng 16% so với năm trước. Chính phủ Ấn Độ gần đây đã cho phép lên tới 100% vốn FDI trong hợp đồng sản xuất, nhằm tăng tỷ lệ đầu tư vào lĩnh vực sản xuất trong tổng vốn FDI. Tại Việt Nam, vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,2%/năm, năm 2019 Việt Nam đã thu hút hơn 38 tỷ USD, vốn đầu tư lĩnh vực sản xuất và chế biến chiếm gần một nửa trong số này.

Cơ sở hạ tầng cảng sẵn có

Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Ấn Độ đứng thứ 51/139 quốc gia về chỉ số cơ sở hạ tầng cảng (Việt Nam xếp ở vị trí thứ 85). Chính phủ Ấn Độ đã chi 1,85 tỷ USD phát triển cơ sở hạ tầng tại các cảng lớn trong nước. Ấn Độ cũng đã cho phép 100% vốn FDI vào các dự án liên quan đến cảng và miễn thuế 10 năm liên quan đến dự án xây dựng và bảo trì các cảng và bến cảng.

Trong khi đó, Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý thuận lợi để kết nối với các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Với 40 cảng biển lớn nằm dọc bờ biển dài 3.260km, công suất bốc dỡ hàng xấp xỉ 500 triệu tấn hàng hóa hàng năm. Tuy nhiên, khối lượng hàng hóa qua cảng của Việt Nam vẫn thấp hơn đáng kể so với Ấn Độ. Ngoài ra, chi phí vận chuyển từ Việt Nam sang Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản cao hơn (50 - 100%) so với Ấn Độ. Những yếu tố này làm cho Việt Nam khó có khả năng cạnh tranh với Ấn Độ.


Một công nhân ngành dệt may tại Kolkata, Ấn Độ   
Nguồn: Reuters

Ứng dụng công nghệ và tự động hóa

Ấn Độ xếp thứ 18 và Việt Nam xếp thứ 24 về chỉ số sẵn sàng cho tự động hóa. Chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) của Ấn Độ cũng cao gần gấp đôi so với Việt Nam, tính theo phần trăm GDP. Hiện tại, Ấn Độ đã thành lập Trung tâm xuất sắc cho công nghiệp 4.0 và có kế hoạch chi tiết để tăng tốc độ chuyển đổi sản xuất kỹ thuật số. Bosch Rexroth, nhà cung cấp giải pháp công nghệ tự động hóa hàng đầu Ấn Độ đã tài trợ cho Trung tâm Công nghệ tự động hóa công nghiệp 4.0 đầu tiên của Ấn Độ tại Đại học Công nghệ Gujarat (GTU), trong khi đó các công ty khác như Siemens đang đầu tư vào R&D liên quan đến công nghệ số hóa tại đây. Các sáng kiến ​​khác của Chính phủ như Trung tâm sản xuất tiên tiến thông minh và chuyển đổi nhanh (SAMARTH) - Udyog Bharat 4.0 cũng sẽ gia tăng việc áp dụng công nghiệp 4.0 ở Ấn Độ.

Việt Nam cũng sẽ xây dựng Trung tâm Đổi mới và Sáng tạo quốc gia tại Hòa Lạc, Hà Nội, đồng thời thực hiện các chính sách để thúc đẩy ứng dụng công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc vào đầu tư từ các quốc gia như Nhật Bản. Rất ít công ty Nhật Bản như Daikin đã thực hiện các sáng kiến ​​liên quan đến tự động hóa tại Việt Nam. Nhà máy của Daikin là nhà máy đầu tiên ở Việt Nam sử dụng AGV - máy tự động cung cấp linh kiện cho dây chuyền sản xuất và công nghệ internet vạn vật (Internet of Things) trong các hệ thống sản xuất. Các công ty nước ngoài khác có trụ sở tại Việt Nam vẫn còn chậm trễ trong áp dụng công nghiệp 4.0.

Mặc dù cả Ấn Độ và Việt Nam đang tăng cường đầu tư vào công nghệ và tự động hóa, nhưng Ấn Độ ​​sẽ là quốc gia dẫn đầu trong lĩnh vực công nghệ và CNTT nhờ sự hỗ trợ của Chính phủ.

Thuế suất thấp

Năm 2019, Ấn Độ đã giảm thuế suất chung cho doanh nghiệp từ 30% xuống còn 22% để thúc đẩy đầu tư, thu hút các công ty quốc tế và củng cố nền kinh tế của đất nước. Ngoài ra, đối với các công ty sản xuất mới có kế hoạch đến Ấn Độ, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đã giảm xuống còn 15% (17%, bao gồm cả tạm dừng và phụ phí). Trong khi đó, Việt Nam có mức thuế suất phổ thông là 20%, đồng thời có nhiều mức thuế ưu đãi tùy thuộc vào dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ.

Chi phí lao động cạnh tranh và dễ tiếp cận

Ấn Độ có lực lượng lao động rất lớn với hơn 500 triệu người, với khoảng 5 - 10 triệu lao động được bổ sung hàng năm. Mức lương của lao động Ấn Độ khoảng 110 - 130 USD/tháng. Trong khi đó, Việt Nam có khoảng 57,5 ​​triệu lao động, với mức lương trung bình dao động từ 130 - 190 USD/tháng. Năm 2019, Ấn Độ đã hợp nhất 44 luật liên quan đến lao động thành một bộ gồm 4 bộ luật mới liên quan đến điều chỉnh tiền lương, quan hệ lao động, cung cấp an sinh xã hội và điều kiện làm việc. Ngoài ra, vào tháng 5.2020, để phục hồi tổn thất do đóng cửa nền kinh tế và thu hút đầu tư, chính quyền các bang Uttar Pradesh, Gujarat và Madhya Pradesh đã tuyên bố cải cách Luật Lao động, loại bỏ vai trò của thanh tra lao động hoặc sự can thiệp của chính phủ vào việc thuê hoặc sa thải công nhân. Mục tiêu là để doanh nghiệp linh hoạt hơn và tự do hoạt động.

Thị trường tiêu dùng rộng lớn

Ấn Độ là thị trường lớn hơn Việt Nam. Do đó, Ấn Độ có triển vọng tốt hơn cho các nhà đầu tư. Năm 2019, thị trường tiêu dùng ngành điện tử Ấn Độ đứng ở mức 11 tỷ USD, Việt Nam 6 - 7 tỷ USD. Gần 3,8 triệu ô tô mới (xe chở khách và xe thương mại) và 159 triệu chiếc điện thoại di động đã được bán ở Ấn Độ so với 0,3 triệu và 20 triệu chiếc ở Việt Nam.

Nguyên vật liệu sẵn có

Các nhà sản xuất tại Việt Nam trong các ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng hóa. Phần lớn nguyên liệu thô có nguồn gốc từ bên ngoài. Trên thực tế, 70 - 80% nguyên liệu dệt và nhựa, 75 - 80% linh kiện điện tử và 85 - 90% nguyên liệu dược phẩm được nhập từ Trung Quốc. Trong khi đó, năng lực sản xuất nguyên liệu của Ấn Độ rất mạnh. Ngoài ra, Ấn Độ là nhà sản xuất bông lớn nhất và nhà sản xuất thép lớn thứ hai trên toàn cầu. Do đó, sự sẵn có của nguyên liệu là điểm thuận lợi đối với các nhà sản xuất.

Ấn Độ đang thực hiện một số sáng kiến ​​nổi lên như là trung tâm sản xuất mới và thu hút các nhà sản xuất nước ngoài rời khỏi Trung Quốc. Các ưu đãi của Ấn Độ đối với nhà đầu tư nước ngoài gồm giảm thuế doanh nghiệp, cải cách thu hồi đất và nới lỏng các chỉ tiêu FDI trong một số lĩnh vực. Tuy nhiên, Ấn Độ cũng có một số thách thức cần được giải quyết, như thủ tục kinh doanh, quá trình thu hồi đất kéo dài và năng suất thấp do công nghệ lạc hậu. Ấn Độ sẽ phải nhanh chóng vượt qua những thách thức này để nổi lên như một điểm đến được lựa chọn cho chuỗi cung ứng và trung tâm sản xuất.

Hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam có nhiều thế mạnh trong thu hút dòng vốn FDI thời gian tới như chế độ chính trị ổn định, tăng trưởng kinh tế ổn định, tham gia nhiều FTA thế hệ mới, trình độ giáo dục đang được cải thiện, cơ sở hạ tầng tốt, tham nhũng đang dần được đẩy lùi và vị trí địa lý thuận lợi. Ngày 22.5 vừa qua, Chính phủ Việt Nam cũng đã thành lập tổ công tác đặc biệt, với tư duy mới, đón sóng chuyển dịch dòng vốn đầu tư sau dịch Covid-19. Những lĩnh vực mà các tập đoàn xuyên quốc gia có xu hướng dịch chuyển là CNTT và công nghệ cao, thiết bị điện tử, thương mại điện tử và logistics, hàng tiêu dùng và bán lẻ. Việt Nam sẽ đưa ra các hỗ trợ về thuế, đất đai, biện pháp xúc tiến đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư và cung ứng lao động có tay nghề. Tuy nhiên, Việt Nam cũng còn nhiều thách thức trong quá trình thu hút sự dịch chuyển của dòng vốn quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu như doanh nghiệp Việt Nam thiếu vốn, công nghệ, nguyên vật liệu trong chuỗi giá trị, đặc biệt doanh nhân và doanh nghiệp chưa thật chủ động mà còn chờ sự chỉ đạo hay hỗ trợ của Chính phủ; công nghiệp phụ trợ còn thiếu, không đủ hỗ trợ doanh nghiệp FDI; giá bất động sản cao và kết nối hạ tầng logistics hạn chế.

Bùi Quý Thuấn
Theo Vipul Kumar