Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu

Cần "đơn thuốc" hiệu quả cho nguồn nước

- Thứ Tư, 09/09/2020, 06:15 - Chia sẻ
Nhắc đến an ninh nguồn nước tại Việt Nam, chúng ta đang chứng kiến đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hứng chịu cuộc “đại hạn” lịch sử, gây nên đợt hạn hán gay gắt nhất trong vòng 5 năm gần đây.

Theo thống kê từ 13 tỉnh ĐBSCL, do hạn hán, xâm nhập mặn giai đoạn từ cuối năm 2019 đến tháng 4.2020, toàn vùng có gần 100 nghìn hộ dân thiếu nước sạch sinh hoạt. Số hộ thiếu nước sạch sinh hoạt tập trung tại các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau và Tiền Giang. Hạn, mặn cũng đã gây thiệt hại nặng nề đến sản xuất lúa ở các địa phương.

Theo số liệu của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai, hiện đã có gần 29.700ha vụ mùa 2019 và Đông - Xuân 2019 - 2020 ở ĐBSCL bị thiệt hại, đứng trước nguy cơ mất trắng. Dự báo, thời gian tới, toàn vùng sẽ có thêm khoảng 332.000ha lúa Đông - Xuân, 136.000ha cây ăn quả khả năng bị ảnh hưởng.

Vận hành cống ngăn mặn ở tỉnh Hậu Giang.
Ảnh: L.T

Kết quả quan trắc của các ngành chức năng ở một số tỉnh, thành vùng ĐBSCL mới đây cho thấy, nguồn nước mặt, nước ngầm đang bị cạn kiệt và ô nhiễm do những tác động của BĐKH và hoạt động khai thác nước tự phát, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, xả thải của công ty, xí nghiệp tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung dọc theo các tuyến sông.

Ông Lý Quốc Sử, Giám đốc Trung tâm Quan trắc Môi trường, Sở TN - MT tỉnh Hậu Giang cho biết, từ năm 2018 đến nay, qua kết quả phân tích chất lượng nguồn nước mặt ở một số tuyến sông, kênh rạch trên địa bàn tỉnh Hậu Giang như: kênh Xáng Xà No, sông Lái Hiếu, sông Cái Côn cho thấy nguồn nước mặt đang bị ô nhiễm hữu cơ, vi sinh do tác động từ nước thải, chất thải.

Theo báo cáo hiện trạng môi trường nước mặt trên địa bàn TP Cần Thơ năm 2019 cho thấy, chất lượng nguồn nước mặt ở một vài vị trí quan trắc có nồng độ chất ô nhiễm vượt giới hạn quy định. Nhiều tuyến sông, hồ, kênh, rạch tại các quận Ninh Kiều, Bình Thủy đã chuyển sang màu đen và có mùi hôi, còn những quận, huyện vùng ven tình trạng ô nhiễm môi trường nước mặt cũng đang xảy ra.

Ông Nguyễn Chí Kiên, Phó Giám đốc Sở TN - MT TP Cần Thơ cho hay, thành phố đã triển khai nhiều dự án, chương trình nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn những thách thức trong công tác quy hoạch, kiểm soát ô nhiễm môi trường và các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đã và đang tiếp tục gây sức ép lớn đối với công tác bảo vệ môi trường nước.

Đối với nguồn nước ngầm ở vùng ĐBSCL cũng đang cạn kiệt và ô nhiễm vì trong những năm gần đây người dân, doanh nghiệp ở các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Cà Mau đã khoan tổng cộng hơn 291.000 giếng để lấy nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Do có nhiều hộ dân, doanh nghiệp sử dụng nguồn nước ngầm nên mực nước dưới đất ở các địa phương này đang bị hạ thấp theo từng năm.

Để tránh hạn mặn, những giải pháp ngắn hạn và “tầm nhìn tương lai” đang được đặt ra, từng bước thực hiện để thích nghi với điều kiện bất lợi của thiên nhiên. Ở một số tiểu vùng bị hạn mặn nghiêm trọng, thời gian qua vẫn có nhiều nông dân thích ứng được hạn mặn nhờ chủ động lịch thời vụ, sử dụng giống ngắn ngày, có những rẫy màu chủ động nước tưới, tránh được thiệt hại.

Ở tầm vĩ mô, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17.11.2017 về việc ĐBSCL chủ động thích ứng BĐKH, phát triển bền vững. Theo thống kê của Bộ NN - PTNT, thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP, hiện toàn vùng đã gia cố được hơn 580km bờ bao, đắp 207 đập ngăn lũ; các địa phương cũng chủ động xả lũ lấy nước vào ô bao để lấy phù sa, vệ sinh đồng ruộng, với diện tích trên 141.351ha. Trong năm 2020, Bộ NN - PTNT tiếp tục bố trí kinh phí 5.157 tỷ đồng để thực hiện 20 dự án phòng, chống hạn mặn ở ĐBSCL. Việc đầu tư xây dựng các công trình phòng chống hạn mặn là hết sức cần thiết, nhưng cũng chỉ là giải pháp trước mắt. Bởi công trình hạ tầng có tuổi thọ nhất định; còn ứng phó với hạn mặn là câu chuyện không phải ngày một ngày hai mà giải quyết được.

Xây dựng công trình là cần thiết, nhưng để phòng chống hạn mặn ở ĐBSCL thì thêm những giải pháp “phi công trình” khác. Trong đó, không thể không tiếp tục nghiên cứu vận động người dân sử dụng hiệu quả kinh nghiệm “sống chung với lũ, vượt lên đỉnh lũ” của người dân ĐBSCL đã tích luỹ bao năm nay để đưa vùng trở thành “vựa lúa” của cả nước. Ngoài giải quyết việc nước ngọt, cần xem trọng việc nghiên cứu nước mặn, lợ cũng là tài nguyên phát triển kinh tế biển, ven biển, qua đó góp phần từng bước đưa ĐBSCL vượt qua khỏi cái bóng của nông nghiệp lúa nước truyền thống.

P. Nam