Chính sách và cuộc sống

Ai dám cho vay!

- Thứ Ba, 05/05/2020, 08:20 - Chia sẻ
Mới đây, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đề xuất về việc cho 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc “siêu ủy ban” tiếp cận gói tín dụng 250 nghìn tỷ đồng với lãi suất 0% trong thời hạn ít nhất 3 năm.

Như vậy, hiểu thế nào về gói hỗ trợ doanh nghiệp 250 nghìn tỷ đồng qua ngân hàng? Khi thực hiện những chương trình kiểu này, Chính phủ có “hỗ trợ” cho ngân hàng thông qua lãi suất tái cấp vốn hay không? Liệu Ngân hàng Nhà nước có cho các ngân hàng thương mại vay với mức lãi suất thấp hơn hoặc cho phép giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc? Chỉ khi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước có những động thái như vậy thì các ngân hàng thương mại mới có trách nhiệm và cam kết thực hiện chương trình hỗ trợ theo mục tiêu của Chính phủ. Bởi lẽ, bản thân ngân hàng thương mại cũng là doanh nghiệp và trong mọi hoạt động, họ phải đặt sự an toàn và hiệu quả của mình lên trên hết.

Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn của khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm sút. Số liệu trong Sách Trắng về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê thực hiện và công bố mới đây cho thấy, hệ số vốn - sản lượng của doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng, hiệu quả sử dụng vốn ngày càng giảm sút. Nếu như năm 2011, từ 1,8 đồng vốn doanh nghiệp nhà nước tạo ra được 1 đồng doanh thu thuần, thì đến năm 2018, doanh nghiệp nhà nước cần đến 3,06 đồng mới tạo ra được 1 đồng doanh thu thuần. Điều này phản ánh những thất thoát, lãng phí, đầu tư vào những công trình không hiệu quả, không làm tăng giá trị tài sản của những chu kỳ sản xuất sau, xây những công trình phúc lợi, công cộng chưa cần thiết…

Doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn không hiệu quả nhưng nguy hiểm nằm ở chỗ nguồn vốn cơ bản là vốn vay. Bình quân giai đoạn 2011 - 2015, doanh nghiệp nhà nước có 100 đồng vốn thì chỉ có 25 đồng là vốn chủ sở hữu còn 75 đồng là nợ phải trả, nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu bình quân giai đoạn này là 3,02:1. Đến năm 2018, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu là 4,3:1.

Đáng chú ý, nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước rất cao nhưng nợ của doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ 100% còn cao hơn và đa phần khoản nợ đó không được Chính phủ bảo lãnh, không được xem như nợ công.

Với thực tế như vậy, nếu không có một sự cam kết nào đó giữa Chính phủ và ngân hàng thì rất khó thực hiện gói cứu trợ 250 nghìn tỷ đồng. Trường hợp Chính phủ thực hiện hỗ trợ ngân hàng thì cần rất minh bạch về chủ đích và phải rất cụ thể. Như trên đã nói, các doanh nghiệp nhà nước hiệu quả sử dụng vốn thấp, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu ở mức báo động, nếu thực hiện như Ủy ban Quản lý vốn nhà nước đề xuất thì làm sao hoàn lại số tiền cho Nhà nước. Dù với hình thức nào thì tiền nhà nước cũng là tiền dân thông qua thuế và như vậy người dân không những phải chịu những khó khăn do dịch Covid-19 mà lại còn mang thêm gánh nặng trả nợ sau này.

Đề xuất của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước dường như là một điều gì đó không giống với ý định của Chính phủ? Với những đề xuất kiểu này thì gói tín dụng cứu trợ doanh nghiệp (250 nghìn tỷ đồng) rất khó đến được với những doanh nghiệp cần trợ giúp thực sự. Ngân sách nhà nước đang khó khăn, nguồn lực của quốc gia thì hữu hạn, mong rằng Nhà nước sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách để cứu trợ và hỗ trợ theo đúng nghĩa của nó.

TS. Bùi Trinh